Đối với Nguyên Trưng triều, năm Thái An thứ mười chín là một năm rối loạn, loạn lạc liên tiếp làm cho chiến tranh nổi lên khắp nơi, lòng người thấp thỏm, đế đô Kiến Khang bị phá hủy hơn nửa, chỉ trong một thời gian ngắn mà triều đại đã thay đổi ba đời. Dưới sự dẫn dắt của tân đế, Nguyên Trưng triều dời đô đến Lạc Dương.

Chuyện dời đô liên quan đến phúc khí của cả quốc gia, trình tự phức tạp, cần kiểm tra hay cúng bái nhiều lần, quyết định ngày tốt. Các vương công đại thần của Kiến Khang đi trước, chuẩn bị thật long trọng để nghênh đón loan giá của Hoàng đế.

Bất quá tân đế Tuyên đế là một người nóng vội, hành sự sát phạt quyết đoán, không theo lẽ thường. Dưới sự đốc thúc của Tuyên đế, vào tháng ba năm Thái An thứ hai mươi, cũng tức là năm Long Khải nguyên niên sau khi đã thay đổi niên hiệu, lần đại triều đầu tiên được cử hành ở hoàng cung Lạc Dương.

Nếu nói Văn đế kế thừa tác phong của Minh đế, thiên về lôi kéo lung lạc, thì Tuyên đế chính là mang một tác phong khác – Không lên tiếng thì thôi, đột nhiên lên tiếng, thường xuyên tạo ra sấm chớp vào những lúc triều đình có chiều hướng sóng yên biển lặng. Hơn nữa những sấm chớp đó thường được tung ra vào những ngày trọng đại.

Lần đại triều đầu tiên ở Lạc Dương, Tuyên đế hạ mấy ý chỉ ngoài dự kiến của mọi người. Khiến người ta quan tâm nhất là, hắn đưa Văn đế mà lúc trước bị mọi người mặc nhận là đã “tuẫn quốc” xuất hiện, đổi sang phong làm Càn Vương, đồng thời, chính thức lập nhi tử của Văn đế và Đằng Hoàng hậu lúc đó mới một tuổi lẻ ba tháng, Tề Quân Tuyệt, làm Thái tử, cho phép gọi Càn Vương là phụ vương, gọi Tuyên đế là phụ hoàng.

Một hòn đá dấy lên hàng ngàn con sóng!

Các vương công đại thần đang ở Nghị Chính điện nhìn thấy Văn đế đi khập khiễng vào trong điện cúi người lĩnh chỉ, đều thực sự lấy làm kinh hãi!

Tiền Văn đế, Càn Vương hiện giờ không quỳ xuống trước Tuyên đế, Tuyên đế cũng không coi đó là gây gổ, còn lập tức tuyên bố các loại ưu đãi dành cho Càn Vương, ví dụ như miễn quỳ, được ngồi trên điện, được ở trong cung, vân vân, khiến mọi người đều ồn ào!

Các Ngự sử như đánh máu gà, Tuyên đế còn chưa dứt lời, ai ai cũng quỳ rầm xuống, kêu gào không hợp lễ pháp, vi phạm luân thường, khẩn cầu Hoàng thượng thu hồi mệnh lệnh.

Tuyên đế trả lời bằng một tiếng cười lạnh, sau đó một thái giám mở cuộn thánh chỉ ra, tuyên đọc những công tích của Văn đế đã làm nên từ khi còn là Hoàng tử giám quốc đến khi đăng cơ. Trong đó, quan trọng nhất là việc bảo vệ đế đô Kiến Khang, chống lại quân Đột Quyết, bị trúng mấy mũi tên, bỏ sống quên chết, mười chữ “Thiên tử thủ quốc môn, quân chủ tử xã tắc” nặng tựa ngàn quân!

Sau đó là những cách nói như có người tận mắt thấy Văn đế trọng thương tắt thở, vốn đã tuẫn quốc được truyền ra. Nhưng trời cao có đức hiếu sinh, không nỡ để vị đế hoàng có công lớn như Văn đế đi như vậy, cho nên hạ phúc chỉ, để Văn đế sống lại.

Về chuyện Văn đế đã trở lại, tại sao người ngồi trên long ỷ vẫn là Tuyên đế, thì do tiền Văn đế, tức Càn Vương hiện tại phụ trách giải thích.

Càn Vương ôn hòa điềm đạm nói ra sự thực.

Đầu tiên, chân hắn không còn nguyên vẹn trong chiến tranh, vị trí Hoàng đế Nguyên Trưng không nên để một người khiếm khuyết đảm nhiệm. Thân thể hắn từng bị thương nặng, sức khỏe không như lúc trước, phải từ từ điều dưỡng, không thể dốc hết sức lực cho triều chính, bất lợi lớn cho đất nước. Hắn bằng lòng thoái vị.

Tiếp đó, tán dương Tuyên đế có phong phạm như tổ tiên khi xưa trong lúc chống trả Đột Quyết, là một người kế vị vô cùng thích hợp.

Sau cùng, dâng thánh chỉ do chính Thái thượng hoàng Minh đế viết, nói rõ Tuyên đế đã được Minh đế thừa nhận, là người kế vị danh chính ngôn thuận. Minh đế còn chỉ bảo hai huynh đệ phải cùng nhau trông coi, đồng tâm hiệp lực phát triển Nguyên Trưng lớn mạnh, không được để cho đám man di lại có cơ hội xâm phạm.

Lần này Càn Vương đoan đoan chính chính quỳ xuống, chắp tay hành lễ về phía trước: “Nhi thần nhất định cẩn tuân lời dạy của phụ hoàng, dốc hết toàn lực phụ trợ tân quân!”

Tuyên đế cũng quỳ theo, chắp tay về phía khoảng không: “Trẫm nhất định không phụ Thái thượng hoàng sở thác, cường thịnh đại quốc Nguyên Trưng ta!”

Lập tức tất cả mọi người trong Nghị Chính điện đều quỳ xuống: “Chúng thần nhất định không phụ Thái thượng hoàng sở thác, phụ trợ Hoàng thượng, cường thịnh đại quốc Nguyên Trưng ta!”

Đằng Huy Nguyệt an nhàn nằm trên sạp, cầm sổ gấp ghi chép đại sự trong triều đọc như cuốn truyện cười.

Sau khi gặp Tề Minh Diệu ở Kiến Khang, Minh đế đưa cậu tới Lạc Dương, sống trong một điền trang ở ngoại thành. Đằng Huy Nguyệt không biết Minh đế có dự định gì không, Minh đế cũng hoàn toàn không trói buộc hạn chế cậu, để mặc cậu muốn làm gì thì làm. Nhưng cậu biết rõ dựa vào sự chấp nhất của Tề Minh Viêm, hắn sẽ không dễ dàng bỏ qua như vậy. Minh đế áp chế hắn sẽ chỉ càng kích thích tâm tư phản nghịch của hắn.

Bất quá nếu Minh đế ung dung tự tại, Đằng Huy Nguyệt cũng không quan tâm. Dù sao thì bất luận là tốt hay xấu, cậu đã ở cùng Minh đế, hơn nữa lòng tin của cậu với Minh đế vượt qua Tề Minh Diệu và Tề Minh Viêm nhiều.

Một điều duy nhất phiền muộn chính là phải đưa A Kiếp đi.

Khi đó Đằng Huy Nguyệt tưởng Tề Minh Viêm nhốt Tề Minh Diệu lại vì không có ý tốt, muốn vào cung cứu Tề Minh Diệu ra, không ngờ Tề Minh Diệu không nghe theo mà là nhắc tới tính cố chấp của Tề Minh Viêm. Minh đế và Đằng Huy Nguyệt đã đi rồi, nếu cả Tề Minh Diệu cũng đi nốt, Tề Minh Viêm cảm thấy mất đi toàn bộ lợi thế có thể ràng buộc Đằng Huy Nguyệt nhất định sẽ phát điên, không biết sẽ làm ra loại chuyện mất lý trí nào. Trong lòng Đằng Huy Nguyệt có chút bi ai về chuyện này. Nhưng cậu không thể tiếp tục để Tề Minh Diệu hy sinh bản thân vì cậu nữa, Tề Minh Diệu đã làm quá nhiều vì cậu.

Sau đó Tề Minh Diệu đề xuất muốn A Kiếp.

Đằng Huy Nguyệt chấn động, không do dự mà muốn cự tuyệt ngay. Nhưng câu nói tiếp đó của Tề Minh Diệu khiến cậu không thể không cân nhắc.

A Kiếp do Đằng Huy Nguyệt sinh ra, là nhi tử duy nhất của cậu và Minh đế. Trong người nó chảy dòng máu thuần khiết nhất của hoàng tộc Tề thị. Tương lai A Kiếp muốn đi theo con đường nào, muốn được triều dâng sóng dậy, hay là an ổn bình thản, nên để nó lựa chọn. Hơn nữa, Tề Minh Viêm đã nói từ trước, muốn phong nó làm Thái tử.

Có Tề Minh Diệu và A Kiếp ở đây, về cơ bản có thể làm yên lòng Tề Minh Viêm.

Đằng Huy Nguyệt hỏi Minh đế chuyện này, Minh đế bảo cậu suy nghĩ cẩn thận, tự cậu quyết định.

Đằng Huy Nguyệt rất áy náy khi phát hiện ra từ sau khi Minh đế trở về, lực chú ý mà cậu đặt trên người A Kiếp có thể nói là ít đến mức đáng thương. Không phải cậu không yêu thương A Kiếp, nhưng chỉ cần Minh đế ở đây, ánh mắt của cậu lại không khống chế được mà cứ dính chặt người hắn, bất luận thế nào cũng không dời tầm mắt được. Một cái nhìn của Minh đế có thể khiến cậu say đắm thất điên bát đảo.

Đằng Huy Nguyệt biết kiếp này mình đã hết thuốc chữa rồi.

Cuối cùng cậu quyết định đáp ứng yêu cầu của Tề Minh Diệu. Có vẻ Tề Minh Diệu không bất ngờ chút nào.

Trước khi đưa A Kiếp đi, Đằng Huy Nguyệt để nó ở cùng mình, cả ngày lẫn đêm. Tính tình A Kiếp không phải tốt lắm, có chút bá đạo, không theo ý nó là cáu kỉnh ngay, trước kia cực kỳ dính vào Đằng Huy Nguyệt. Thế nhưng trước mặt Minh đế, sự bá đạo của A Kiếp giảm xuống nhiều. Xưa nay Minh đế luôn mang lòng dạ sắt đá đối với các nhi tử, hắn không nuông chiều A Kiếp giống Đằng Huy Nguyệt, cũng có cách làm Đằng Huy Nguyệt không chú ý đến A Kiếp khóc lóc ầm ĩ. Nghĩ mọi biện pháp mà không được như mong muốn, A Kiếp chỉ có thể nghẹn ngào ủy khuất, ngược lại bắt đầu quay sang thích chơi cùng Liễm Vũ.

Chờ đến lúc vị sinh phụ Đằng Huy Nguyệt vô lương tâm của nó nhớ đến nó, nó đã dính vào Liễm Vũ rất chặt, có Đằng Huy Nguyệt hay không đều rất bình thường.

Bất quá có thể lại được ở cùng người cha vừa thơm tho vừa xinh đẹp, A Kiếp vẫn rất vui, hoa chân múa tay suốt nửa ngày, cười khanh khách rạng rỡ. Đáng tiếc nó cũng chỉ vui mừng được hai ngày, Đằng Huy Nguyệt lại bị cữu cữu của cậu kéo đi, hoàn toàn vứt bỏ ý nghĩ “nhân lúc bây giờ nhi tử vẫn chưa đi phải cộng tụ thiên luân cho thật đã” ra sau đầu.

Nhưng khi A Kiếp thật sự đi rồi, bề ngoài trông Đằng Huy Nguyệt không sao cả, nhưng cứ cách mấy ngày là bệnh nhẹ một trận. Nếu không phải cậu kéo lại, Minh đế đã phái người mang A Kiếp về đây.

Đằng Huy Nguyệt bị Minh đế ấn trên giường tĩnh dưỡng hơn mười ngày. Minh đế biết cậu muốn nghe tin tức của A Kiếp, nên cho người ghi lại toàn bộ mọi chuyện lớn nhỏ trong triều trong cung, để cậu xem cho đỡ buồn.

Đừng thấy hiện giờ Minh đế là Thái thượng hoàng, nhưng những người có thể sử dụng trong tay vẫn rất nhiều. Đặc biệt là ám bộ đắc lực nhất, chiêu mộ nhân tài đa dạng, ai ai cũng là tinh anh vượt trội. Đằng Huy Nguyệt đã từng dùng họ, được mở rộng tầm mắt từ lâu. Sau khi đến sống ở Lạc Dương, thi thoảng Minh đế sẽ gặp vài người, không hề tránh né cậu, để cậu đối diện với những người này một cách trực quan hơn.

Có họ ở đây, triều đình của Tề Minh Viêm giống như cái sàng vậy. Nếu Minh đế muốn, hắm tuyệt đối có thể trở thành Hoàng đế trong tối của Nguyên Trưng.

Nhưng hiển nhiên Minh đế không có ý này. Trên cơ bản hắn gọi mấy người kia đến là để vừa đấm vừa xoa chỉ bảo một hồi, nhân tiện để họ quen với Đằng Huy Nguyệt.

Những người này tất cung tất kính, trung thành tận tâm với Minh đế, với Đằng Huy Nguyệt thì là chuyện khác. Nhưng có lẽ đã có người nhắc nhở bọn họ điều gì, nên thái độ của họ vô cùng khách sáo hữu lễ với Đằng Huy Nguyệt.

Chỉ cần không xúc phạm cậu, Đằng Huy Nguyệt chẳng thèm quan tâm bọn họ có thái độ gì. Đến cả nhi tử thân sinh của mình mà cậu còn không để ý, thuộc hạ của Minh đế càng không có loại “vinh quang đặc biệt” này.

Ban đầu cậu vẫn hơi lo lắng Tề Minh Diệu sống trong tầm tay Tề Minh Viêm, nhưng theo từng chuyện từng chuyện triều đình hậu cung truyền tới, Đằng Huy Nguyệt đã yên tâm hơn.

Tề Minh Viêm cho Tề Minh Diệu những đãi ngộ khá bất ngờ, nghiễm nhiên còn có dáng vẻ dựa vào Tề Minh Diệu như cánh tay. Tuy không biết là thật tình hay giả ý, nhưng chung quy cũng là một khởi đầu tốt. Tề Minh Viêm dám thể hiện tình huynh đệ như thế, nếu còn muốn gây bất lợi cho Tề Minh Diệu sẽ không dễ dàng gì.

Đến tận khi Càn Vương Tề Minh Diệu xin ý chỉ phân tách với Đằng Hoàng hậu đang bị “giam lỏng thâm cung”, mà Tuyên đế cũng không còn cố chấp lập hậu nữa, Đằng Huy Nguyệt mới thực sự buông bỏ gánh nặng, cuộc sống trở nên thoải mái hơn.

Lúc Minh đế đi vào, là nhìn thấy Đằng Huy Nguyệt khoác áo choàng lông cáo nằm trên sạp đọc mấy chuyện quái lạ, bên tay là chén trà nóng tỏa khói nhè nhẹ và bánh ngọt, khuôn mặt xinh đẹp tràn đầy sự khoan thai.

Trong phòng ấm áp dào dạt, khí lạnh tàn dư trong ngày xuân bị chặn ở bên ngoài.

Đằng Huy Nguyệt nghe thấy động tĩnh, ngẩng đầu nhìn Minh đế, lộ ra nụ cười sáng chói, như làm bừng sáng cả trời đất.

Minh đế cười, sóng mắt ôn nhu say lòng người.

Đằng Huy Nguyệt đứng lên, bổ nhào đến. Minh đế ôm cậu, Đằng Huy Nguyệt ôm cổ hắn người ha ha: “Bận xong rồi?”

Minh đế gật đầu, để cho cậu cọ tới cọ lui trong ngực hắn.

Đằng Huy Nguyệt hôn vào má hắn, cảm thấy mặt hắn hơi lạnh, vươn đôi tay ấm áp áp lên hai má hắn.

Minh đế kéo cổ tay cậu xuống: “Ngươi chưa khỏi phong hàn, không bận.”

Đằng Huy Nguyệt không tranh luận với hắn, kéo hắn đi sưởi ấm, bưng chén trà nóng cho hắn uống: “Ta không quan tâm người bận việc gì, phải chú ý thân thể, đừng chỉ trông coi ta. Nếu không, sau này ta không nghe lời người nữa.” Đằng Huy Nguyệt uy hiếp.

Từ nhỏ đến lớn Đằng Huy Nguyệt lo lắng nhất chính là sức khỏe của Minh đế. Liên quan đến sức khỏe của Minh đế, cậu sẽ trở nên cực kỳ hung dữ. Trước đây Minh đế trúng cổ độc mà cửu tử nhất sinh, Đằng Huy Nguyệt lại càng khẩn trương hơn.

“Chờ thời tiết ấm hơn một chút, ta cho ngươi xem.” Minh đế nói, hắn biết rõ phải trấn an bảo bối nhi của hắn thế nào.

Đằng Huy Nguyệt không có hứng thú với chuyện Minh đế làm gì bên ngoài, nhưng cho cậu đi theo, cậu có thể quan sát sức khỏe của Minh đế chặt chẽ hơn.

Quả nhiên, Đằng Huy Nguyệt lập tức nở nụ cười hài lòng. Bất quá lần này cậu hơi tò mò, Minh đế làm chuyện gì cũng không giấu cậu, giờ lại thần thần bí bí như thế, trong lúc dưỡng bệnh cậu không hỏi nhiều, Minh đế cũng không nói gì.

Đằng Huy Nguyệt có linh cảm chuyện Minh đế đang bận có liên quan đến cậu.

Là chuyện gì đây?