Trans+Edit: Thepa

~~~~~~~~~~

Ned bảo là chúng tôi sẽ tới được Barcia trong vòng hai ngày. (Vậy đó sẽ là ngày mai.)

Chạng vạng đến gần trong khi Nito đang vẽ tranh như thường lệ, nên chúng tôi quyết định cắm trại cạnh một con suối gần đây. Tôi chọn lấy những cành cây con từ chỗ gỗ được hai người lượm và dùng một con dao để gọt chúng thành dăm. Tôi bỏ những cành gầy lên trên đống dăm, tiếp đến là lá rụng và những khối gỗ khô ráo, trước khi cho một que diêm vào hết thảy chúng. Nhóm lửa cần đến thủ thuật, nhưng giờ đây tôi đã quá quen với quá trình này. Tôi dời lửa đến một cái lò tạm bợ được làm từ một vòng tròn bằng đá. Thứ đó sẽ là nhà bếp của tôi cho đêm nay.

Tôi giăng tấm bạt và vắt chéo chân ngồi xuống trước khi mở một chiếc túi da dài và mỏng. Bên trong là một que thổi lửa được tách thành hai mảnh. Tôi dùng một con ren ở giữa để nối chúng lại với nhau. Chiếc cán mịn và hơi dính chặt vào tay tôi—một cảm giác quyến rũ mà tôi có thể tận hưởng suốt cả đêm. Đây là que thổi lửa mà Ned đã trao cho tôi.

“Mấy tiếng cười ấy đang khiến tôi phát khiếp đấy, Keisuke,” Nito nói, nêu lên ý kiến.

Cô đang cúi mình đối diện tôi và quăng cho tôi một cái lườm chằm chằm. (Úi, có vẻ như cảm xúc của mình đang hiện rõ trên mặt.) Tằng hắng bằng một tiếng “à hem” để làm xao nhãng sự khó xử, tôi di chuyển đầu mút vào trong lửa trại. Thổi không khí qua nó khiến ngọn lửa bừng lên.

Tấm mềm của màn đêm đang dần phủ lên cảnh vật xung quanh chúng tôi. Không bao lâu nữa thì lửa trại này sẽ tắt hẳn. Chúng tôi cần phải chuẩn bị thêm củi trước khi điều đó xảy ra. Tôi đặt que thổi sang bên và thay vào đó là lôi một khúc gỗ lũa lại gần. Tôi đã tìm thấy khúc gỗ trên bờ sông, có lẽ nó bị mục nát từ một cành cây lớn, hoặc chỉ là một cành mỏng hơn nhiều bị lìa hẳn ra. Khúc gỗ hoàn toàn ráo, khiến nó thành vật tốt nhất dành cho lửa trại.

Tôi lấy ra một chiếc rìu nhỏ từ trong ba lô của mình, mang đôi găng tay da vào và tháo cái bao trên lưỡi rìu. Khuỵu gối đứng dậy, tôi nắm lấy cán rìu bằng hai tay và thực hành vài cú vung. (Nó có khả năng tách làm đôi nếu mình chẻ trúng vết nứt,) tôi nghĩ. Nito chăm chú quan sát đầu rìu di chuyển cùng những cú vung của tôi. Sự nghiêm túc tuyệt đối trên mặt cô khiến tôi cảm thấy lo lắng.

(Chuyện này lạ thật. Tại sao mình có cảm giác như không được phép làm sai vậy?)

Tôi kiểm tra kỹ lưỡng đường mà rìu sẽ đi, hít sâu, và sau đó hạ lưỡi rìu xuống bằng một cử động dứt khoát. Lưỡi bám vào gỗ, ngay chỗ tôi đã nhắm, và suýt tách nguyên cả khúc gỗ thành đôi; chỉ phần nhỏ ở mặt trước là không lìa ra.

“Quoa…”

Tiếng thở đầy ấn tượng của Nito bỗng khiến tôi thấy nhẹ nhõm và đồng thời phấn chấn. Chà, nó chỉ là chẻ gỗ thôi, nhưng đàn ông thường có thói quen bị bối rối khi ở gần con gái. Tôi đập mạnh khúc gỗ vào nền đất vài lần cho đến khi nó hoàn toàn bị tách rời. Đặt khúc gỗ về lại, tôi nhấc rìu lên và vung thêm một nhát nữa—đánh trúng, vỡ. Tôi lặp đi lặp lại điều tương tự cho đến khi khúc gỗ trở thành một bó củi.

Khi lấy hộp gia vị ra khỏi thùng gỗ, tôi bắt đầu suy nghĩ nên nấu gì cho bữa tối. Có lẽ thịt lúc này sắp không dùng được nữa. Tốt nhất là ăn hết nó vào đêm nay. Chúng tôi đã không ăn gì ngoài thịt trong vài ngày qua, và ý nghĩ như vậy khiến tôi phải nhiều lần cân nhắc lại. Mặc cho tôi từng khao khát nó đến dường nào trong khi còn gắn bó với đồ hộp, nó vẫn làm tôi thấy khó chịu khá nhanh. (Hình như dạ dày của mình khó tính hơn nhiều so với những gì mình nghĩ,) tôi nghĩ ngợi một cách mỉa mai.

Khi đang cân nhắc về việc sử dụng đồ hộp để hòa với thứ gì đó, tôi chợt có một ý tưởng. Tôi lấy ra một cuốn sổ từ trong ba lô.

“Nito, cô giúp tôi được không?” Tôi hỏi, chìa nó đến cô.

Cô liền hiểu.

“Anh muốn tôi tìm một công thức à?”

“Phải. Tôi bí rồi.”

Cuốn sổ là quyển sách dạy nấu ăn viết tay mà Vandyke đã giao phó cho tôi. Toàn bộ công thức đều được ghi bằng chữ của thế giới này, nên hiển nhiên là tôi chẳng thể đọc được nó.

“Món gì đó với thịt nhỉ?”

“Ừ, đúng vậy.”

Cô lật sách xem các công thức. Đôi khi, cô đều xuất một món và đọc to những trọng điểm. Tôi đã cho qua rất nhiều chúng bởi vì chúng tôi chẳng có nguyên liệu hay dụng cụ, hay do bởi chúng quá khó đối với tôi. Cuối cùng, cô cũng tìm ra một món thích hợp và tôi bắt đầu nấu ăn.

“Tôi xin lỗi. Anh luôn là người nấu,” Nito lẩm bẩm vài phút sau khi tôi xắt những nguyên liệu đóng hộp.

“Có chuyện gì vậy?”

“Anh về cơ bản làm mọi thứ: nấu ăn, lái xe, thậm chí còn nhóm lửa và thu thập nước. Cảm giác như tôi chẳng cần động tay động chân vậy.”

Tôi định cười xòa và trêu chọc cô ấy vì trở nên câu nệ thái quá, cho đến khi tôi nhìn vào cô. Trong mắt cô có một cái nhìn nghiêm nghị, khiến tôi nín cười. Chí ít tôi biết cách chỉ ra khi nào nên và không nên phớt lờ một thứ gì đó bằng một câu đùa cợt.

“Chà, chính vì cô ở đây nên tôi phải lo liệu những bữa đàng hoàng. Hơn nữa, có cô đọc công thức cũng giúp tôi nấu được những món mới mà.”

“Nghe như đấy là điều anh chẳng cần ở tôi.”

“Thực sự là vậy. Tôi không cầu kỳ đến thế khi ở một mình đâu.”

Cơ mà với Nito ở đây, tôi cảm thấy nên có trách nhiệm. Tôi chẳng thể cứ trở lại lối sống thảm bại trước kia của mình, nên tôi đã trưởng thành thành một người tương đối gương mẫu. Nhưng hơn hết thảy mọi thứ khác, tôi rất biết ơn vì không phải ở một mình nữa. Có lẽ cô ấy không hiểu điều đó có ý nghĩa với tôi đến dường nào.

“Hơn nữa, nhờ có cô mà chiếc xe mới chạy được. Cô giống như một nhà đầu tư và sự giúp ích của cô rất quan trọng.”

“Đúng là tôi có trả tiền,” cô thừa nhận. “Nhưng anh có thể tìm thấy rất nhiều tiền và đá quý ở thành phố mà?”

“Hmm…”

Cô ấy nói đúng, vì trong một thành phố sẽ có ngân hàng, cửa hàng, và nhà cửa. Tôi có thể đi nhặt chúng và thanh toán khoản nợ của mình.

“Ở đó cũng sẽ có xe,” cô nói thêm.

Chúng tôi đã gặp mặt tại một nhà ga bỏ hoang trên mặt nước, rồi hoàn cảnh xô đẩy hai người đến với phân xưởng của Vandyke. Sau đó chúng tôi thỏa thuận tiếp tục chuyến hành trình cùng nhau bởi vì đôi bên đều có lợi. Thế nhưng khi mà chúng tôi đến thành phố rồi, giao kèo ấy sẽ bị hủy bỏ. Chí ít lắm thì, tôi có thể sẽ kiếm được tiền và Nito có được một chiếc xe. Chúng tôi sẽ không còn lý do nào để đi tiếp cùng nhau.

Ý nghĩ ấy làm tôi hoang mang. Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Tới một lúc nào đó, tôi sẽ xem việc đi cùng cô ấy như một lẽ sống. Dẫu chỉ gặp mặt mới đây thôi, nhưng chúng tôi lại có cảm giác như đã dành nhiều tháng bên nhau.

“Chắc là vậy,” là tất cả những gì tôi có thể moi ra khỏi cổ họng mình, bởi tôi chẳng biết nên nói gì nữa.

Nito đọc to công thức và tôi làm theo chỉ dẫn của cô. Không còn cuộc hội thoại nào khác. Chúng tôi ăn cùng nhau trong ánh lửa, tiếng bát đĩa thế chỗ cho lời nói. Sau khi dọn dẹp qua loa xong, tất cả những gì còn lại về đêm là ngủ. Tôi sẽ ở trong lều và Nito thì ở trong ghế sau của Kettle. Một trong hai người chúng tôi sẽ đi ngủ trước.

Tôi ngồi đối diện ngọn lửa và hớp chút nước. Thỉnh thoảng, tôi dùng que thổi đảo củi để chăm chút ngọn lửa. Nito ngồi kế bên tôi với hai tay ôm lấy cốc, nhìn chằm chằm vào ánh lửa.

Màn đêm trong thế giới này thuần túy, với không một ánh sáng nhân tạo nào xung quanh. Ánh trăng mờ nhạt rọi khắp vùng và ánh sáng mập mờ của ánh lửa là toàn bộ những gì chúng tôi có thể cậy vào. Nếu tôi không coi chừng lửa và tiếp tục cung ứng củi cho nó, nó sẽ nhanh chóng dập tắt; đơn giản vậy thôi. Khó khăn nằm ở chỗ không để cho lửa dập tắt, giống như cảm xúc của chính tôi.

“Nè, Nito,” tôi nghe thấy—giọng của chính mình, lời lẽ tuột ra khỏi môi của chính mình—và sau đó cảm thấy cô nhúc nhích kế bên mình. “Tại sao cô lại tìm kiếm Golden Sea vậy?”

Chúng tôi đã nói về địa điểm trong bức tranh của mẹ cô ấy—bà ta gọi nó là nơi đẹp nhất trên thế gian—vài lần. Tôi không biết có phải cô bắt đầu hành trình chỉ để theo đuổi ký ức không.

Không lời hồi đáp nào sắp xảy đến. Rốt cuộc, khi mà một nhánh cây nhỏ trong ngọn lửa rực lên màu đỏ tươi và rơi xuống đất, cô lên tiếng.

“Bà ấy thường kể về những chuyến hành trình của mình. Bà đi đây đi đó, vẽ vô số tranh. Bà có rất nhiều cuốn sổ vào hồi ấy và từng kể cho tôi nghe mọi kỷ niệm từ chuyến đi của mình—nghe chúng như những câu chuyện vậy—bởi vì tôi chẳng thể rời phòng.” Cô dường như đã linh cảm được câu hỏi mà tôi muốn hỏi và nở một nụ cười ngây ngô với tôi. “Tôi từng là một người tàn tật cho đến gần đây.”

“Trông cô không giống vậy nhỉ. Nhất là xét về cái miệng già mồm của cô.”

“Điều đó chẳng liên quan gì cả. Tôi được sinh ra với tính cách này, được chưa?” Cô bảo tôi, gay gắt lườm.

(Đùa tí thôi mà…)

“Nó được gọi là hội chứng thiếu hụt mana. Anh từng nghe về nó chưa?”

“Chưa, lần đầu tôi nghe đến nó đấy.”

Nito phồng má cũng như lên tiếng với chút tự hào.

“Không một vị bác sĩ nào có thể cho biết tại sao, nhưng kể từ lúc tôi chào đời, tôi chẳng thể di chuyển trừ khi ở trong một khu vực có nhiều mana. Người ta đã lấp đầy phòng tôi với đá mana và điều đó cuối cùng cũng cho phép tôi sống sót. Tôi về bản chất là một phương tiện hơi nước.”

Nito bật cười trước câu đùa cợt tự biên của mình, nhưng tôi thì chẳng thể làm vậy. Chỉ cần nghe kể tôi cũng có thể biết đó là một tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

“Thế nhưng cô hiện giờ trông có vẻ ổn mà,” tôi khích lệ.

“Sự suy sụp mana về bản chất là thế giới hoàn toàn tràn ngập với mana bị dư thừa. Tôi từng suýt chết vì thiếu mana.”

Tôi há miệng vì nhận ra và Nito gật đầu để xác nhận suy nghĩ của tôi.

“Nhờ vào lượng mana dày đặc mà tôi có thể đi dạo như này đây. Thật mỉa mai nhỉ? Nhờ vào sự diệt vong của thế giới, mà tôi được tự do.”

Tôi không chắc làm sao để trả lời câu đó, nhưng Nito không đếm xỉa tới mà tiếp tục.

“Dù sao chăng nữa, chúng ta đang lạc đề. Trong quá khứ, tôi phải ở trong phòng, nên tất cả những gì tôi làm là đọc và học vẽ từ mẹ mình. Tôi yêu những câu chuyện về những bức tranh trong cuốn sổ của bà ấy hơn bất kỳ thứ gì. Tôi hỏi về chúng mỗi ngày bởi vì bà luôn rất vui khi kể lại chúng. Nhưng…”

Mất một lúc trước khi cô tiếp tục. Ghì chặt đầu gối, cô kiên định nhìn vào ngọn lửa.

“Tất cả chúng có lẽ đều là dối trá,” cô đi đến kết luận. “Tôi chưa từng thấy tranh của bà.”

“Nhưng mà, chẳng phải bà ấy đã dạy cô vẽ sao?”

“Bà ta chỉ kèm cặp tôi thôi. Bà nhìn vào tranh tôi và nói, ‘Con cần làm nó giống vậy hơn nè,’ hay mấy câu tương tự thế. Nhìn lại quá khứ, toàn bộ chúng đều nghe như những thủ thuật được viết trong sách, và tôi chưa từng thấy bất kỳ bức nào bà vẽ ngoài những cuốn sổ ấy.”

Vài phản đề hiện lên trong đầu tôi. Thí dụ, bà ấy từng vẽ nhưng giờ thì không nữa. Thế nhưng toàn bộ lý luận ấy đều là những điều Nito có thể tự dễ dàng suy ra, nhất là khi cô hẳn muốn một lý do để tin tưởng hơn nhiều so với tôi muốn.

“Khi bà ấy chết, bố đã vứt tất cả cuốn sổ của bà đi và nói rằng ông ta chưa từng thấy bức tranh nào của bà. Ông nói bà có lẽ đã nhặt được chúng ở một tiệm đồ cổ nào đó và dựng lên những câu chuyện quanh chúng. Tôi cãi lại điều đó rất nhiều vào hồi ấy. Nhưng mà tôi không chắc nữa… Có lẽ chúng được dựng lên. Nên…”

Tại đây, cô hướng ánh nhìn sang tôi, mắt cô hơi nheo lại. Nó trông quá già dặn so với độ tuổi của cô. “Tôi muốn biết liệu bà có thực sự tạo dựng không. Tôi chẳng bận tâm nếu bà có, bởi dù gì, tất cả đều là vì lợi ích của tôi. Nhưng tôi không muốn chết mà vẫn chẳng biết có nên tin bà hay không. Tôi muốn sự thật được sáng tỏ.”

Tôi chưa từng bị những lời lẽ, như khi cô ấy nói cô không muốn chết mà chẳng biết gì, đâm thẳng vào ngực mình. Tôi chưa từng nghĩ sẽ nghe những lời lẽ không do dự ấy đến từ một người trẻ tuổi hơn mình—cô ấy đã hoàn toàn chấp nhận cái chết của bản thân. Cô chẳng muốn có hối tiếc khi cái ngày không thể tránh khỏi đó dù gì cũng đến. Lời lẽ ấy khiến tôi gợi đến những bệnh nhân giai đoạn cuối viết ra danh sách các việc cần làm trước khi họ mất. Lời lẽ của cô ấy khiến tôi hiểu rõ hiện trạng của thế giới này, và đồng thời, sự thật rằng tôi giờ đây là một phần của nó.

“Tôi chắc là nó tồn tại,” tôi nói sau hết. “Golden Sea không phải là một nơi mà mẹ cô đã dựng lên.”

“Anh nghĩ vậy ư?”

“Ừ,” tôi một mực.

Tôi chẳng có cơ sở nào cho sự một mực của mình. Chính tôi còn biết đó chỉ là lời an ủi nhất thời, vậy nên tất cả những gì tôi có thể làm là bảo đảm mình đã nói bằng niềm tin. Mặc dù lời lẽ của tôi chẳng hề có ý nghĩa thực sự nào, nhưng chúng là mọi điều tôi có thể nêu ra.

Một nụ cười hiện trên môi Nito khi cô đồng tình gật đầu. Tôi tìm kiếm thứ gì khác để nói. Tôi chắc chắn còn nhiều điều tôi nên nói thêm, nhưng mọi điều tôi nảy ra đều cảm thấy thật vô nghĩa. Lời lẽ với không một suy nghĩ đằng sau chỉ là sóng âm, làm rung màng nhĩ mà không chạm đến trái tim. Toàn bộ càng đúng hơn nếu chính bạn nói ra mà không tin tưởng vào chúng.

Thế giới rộng bao la, và con người thì càng ngày càng tan biến nhanh hơn khi thế giới dần chuyển động, nhưng không thể tránh khỏi việc hướng đến sự diệt vong của nó. Làm một chuyến hành trình có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh này chứ? Chuyện gì sẽ xảy ra khi tìm kiếm hay hy vọng một điều gì đó? Suy cho cùng, bạn cũng sẽ tan biến vào một lúc nào đó, chết như một trong những bãi pha lê màu trắng kia.

Tôi đang đi tìm người đàn ông bận đồ đen đó. Thế nhưng tôi không hoàn toàn nghĩ rằng mình sẽ tìm được ông ta. Tôi chỉ chẳng còn gì khác: không có lý do để sống, không có lý do để ở lại trong thế giới này. Chuyến hành trình này giống như một chuyến tàu tìm hiểu bản ngã tốn công vô ích, chỉ mình tôi rời mắt khỏi hiện thực và chạy trốn. Việc tôi sống trong cái thế giới này vẫn chẳng có ý nghĩa gì.

“Hãy đi ngủ nào,” tôi bảo.

“Vâng,” cô trả lời sau một hồi.

Ngay cả vậy, tôi hy vọng rằng cô ấy sẽ tìm được nơi mà mình đang kiếm—Golden Sea, nơi đẹp nhất trên thế gian. Nơi mà mẹ cô ấy có lẽ đã bịa ra.

Nếu nơi ấy tồn tại ở đâu đó trên thế giới này, thì tôi vẫn có thể tin tưởng.

———————————

———————————

Không Có Dịch Vụ | 15:11 | 34%

<Ghi chú

PHA LÊ HÓA

Tại sao mọi thứ và ngay đến con người lại biến thành pha lê? Mặt đất, cây cối, và ngay đến công trình cũng đều biến thành những bãi cát trắng. Cảnh tượng hão huyền đến lạ thường, và thậm chí còn tuyệt đẹp. Nó khiến tôi phải rùng mình khi nghĩ rằng: mặc dù mọi người đã lìa trần, nhưng tất cả những gì còn lại là những bãi pha lê ấy.

———————————

Đã đến lúc để ngỏ lời tạm biệt, nhưng mình nghĩ tạm biệt thì thật đáng buồn, và mình thích nói xin chào hơn. Xin chào cho một chuyến phiêu lưu mới.

—Hẹn gặp lại nhé, Fantasy World. Chúng mình hi vọng rằng Ngày mai sẽ lại đến.