<?Emotion-in-Text Markup Language:version1.2:encoding=EMO-590378?>

<!DOCTYPE emtl PUBLIC :-//WENC//DTD ETML 1.2 transitional//VI>

<etml:lang=jp>

<etml:lang=vi>

<body>

Phần: 01

<recollection>

3 chúng tôi đang ngồi trên sân thượng, mỗi đứa với bữa ăn trưa của mình. Khẩu phần của tôi và Cian đều được mẹ chúng tôi quyết định dựa trên các lựa chọn được một chuyên gia thiết kế khuôn mẫu lối sống đưa ra để đảm bảo kiểm soát cân bằng dinh dưỡng một cách hoàn hảo cũng như hương vị vừa phải—nhằm không kích thích tâm hồn tươi trẻ của chúng tôi một cách quá mức bằng những hương vị đáng hổ thẹn.

Các bà mẹ của chúng tôi chỉ cần phải làm thức ăn.

Mùi vị chúng tôi cần đã được xác định bởi một chuyên gia thiết kế khuôn mẫu lối sống – người đã được huấn luyện đặc biệt, người có thể đọc được những cái cơ thể chúng tôi thích và ưu chuộng. Thiết kế viên sau đó sắp xếp mọi nguyên liệu cần thiết trên mạng, phối hợp với phần mềm quản lý hộ gia đình chúng tôi để chắc chắn là thực đơn nằm trong khả năng chi tiêu của gia đình.

Nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc sống chúng tôi đang càng lúc càng bị chia nhỏ thành nhiền phần. Khoán, khoán, khoán cho kẻ khác. Khi còn rất nhỏ, tôi có cảm giác rằng mọi thứ không bị chia nhỏ lắm. Tôi khá chắn là mình còn nhớ mẹ tôi buồn phiền vì cái lứa tuổi, chiều cao, cân nặng, tỉ lệ mỡ cơ thể của tôi khi tôi khoảng 5 tuổi. Bà sẽ đọc các biểu đồ, cân đo tôi các kiểu, rồi đưa ra thực đơn riêng của bà.

Bữa trưa của Miach không có chút gì giống chúng tôi. Thực đơn đơn giản cùng cực, với hai phần ba cái hộp bento[1] khá lớn là cơm trắng và một cục nửa đen nửa đỏ to bự ở giữa hộp – tôi nghĩ chắc nó là món umeboshi mơ muối.

“Shiga Naoya từng nói Nhật thua trận là vì họ ăn cơm trắng,” Miach nói, má ních đầy cơm trắng trộn muối mè. Một hạt gạo con dính trên má cô.

“Trận chiến nào?”

“Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai. Đó là một cuộc chiến giữa hai nước, Mỹ và Nhật.”

“Nhưng không phải cả hai nước đó đã bị chia thành các sinh phủ rồi sao?”

“Phải, nhưng đây là hồi Mỹ còn là một quốc gia. Trước Thời Kỳ Hỗn Loạn.”

“Ưm, Miach, tuyệt quá, nhưng cậu dính cơm trên mặt kìa,” Cian chen ngang, cười khúc khích.

“Ồ.” Miach lấy ngón tay trỏ sờ lên nó rồi búng đi.

“Vì sao lúc nào cậu cũng ăn nhiều thế, Miach?”

“Vì tớ thích ăn. Và nếu tớ không ăn nhiều chừng này, đầu tớ sẽ không hoạt động tốt.”

Tôi nhìn qua nhìn lại bữa trưa của tôi và của Miach. “Cậu không có bao nhiêu món ngoài cơm trong đó. Nó gần như toàn là cơm. Và bento của cậu cũng to nữa.”

“Thế mà tớ gầy. Tức cười, đúng không? Chất béo nâu[2] trên lưng tớ hoạt động trao đổi chất kha khá. Tớ đốt sạch và không có tí thức ăn nào tới được não tớ. Do đó tớ phải ngốn thật nhiều đồ ăn vào. Giá mà có cuộc thi ăn nhanh, tớ cá là tớ thắng đó.”

“Nó là cái gì?”

“Những cuộc thi mà tại đó người ta sẽ thử xem ai ăn được nhiều nhất và nhanh nhất. Tin tức truyền thông thường chiếu những cảnh như vậy, trước Thời Kỳ Hỗn Loạn. Nó không lành mạnh đến sốc quá trời quá đất luôn. Những thứ mà đám người trong các phiên họp đạo đức rất thích nói xấu.”

Nghe có vẻ khá là kinh khiếp. Tôi không hiểu được có niềm vui nào ở chỗ ăn cho lắm rồi phá hư bụng và ruột mình. Tôi ngồi xuống trên tầng thượng, nhìn xuống đường phố thiếu vắng hình dạng hay sắc màu có thể gây phấn khích quá đà. “Vậy, cậu nói với ba hay mẹ cậu muốn ăn gì vào buổi trưa à?”

“Tớ không làm vậy. Tức, tớ tự làm bữa trưa. Tất nhiên mẹ tớ muốn tớ sử dụng lão chuyên gia thiết kế khuôn mẫu lối sống tọc mạch hay gì gì đấy. Không cảm ơn.”

“Không phải sẽ ảnh hưởng xấu đến điểm SA của mẹ cậu nếu con gái bà không nghe theo lời khuyên sức khỏe?”

“Có thể có. Hoặc có thể không. Tớ chưa bao giờ thật sự dám chắc về mấy điều đó. Cậu biết là người xưa có câu, ‘Trẻ con lớn khôn bất chấp cha mẹ.’”

“Ừ, nhưng không phải khác chút sao? Tớ nhớ nó là: ‘Dù không có cha mẹ, trẻ con sẽ nên người.’”

“Đúng, đó là bản gốc. Nhưng có ông nhà văn này tên Sakaguchi Ango, ổng đã nói rằng trẻ con sẽ nên người mà không có thứ hành lý vô dụng là ba mẹ chúng. Thế thì sẽ khác rất nhiều với nói một đứa trẻ sẽ lớn khôn dù không có sự giúp đỡ của ba mẹ. Tất nhiên, có đống người với ý kiến khác nhau về cái được gọi là nên người.”

“Sakaguchi, hử? Nghe thú vị đó.”

“Cậu có tải nó về từ Borgesnet. Tớ khuyên cậu nên thực sự đọc nó—tức là, bằng mắt cậu—thay vì dùng máy đọc.”

Nói vậy, Miach gắp lên một cục cơm lớn rắc muối mè rồi tọng vào mồm. Cảnh cô ấy nhai nhồm nhoàm với má phồng lên thật ngố đến nỗi tôi phải bật cười.

“Gì thế?”

“Cậu có thật sự cần phải nhét tất cả một lúc như kia không?”

“Tớ chỉ đang cố bắt kịp các cậu thôi. Các cậu còn quá ít đồ ăn tới mức nếu tớ không ăn nhanh thì không bao giờ kịp cả.”

“Đừng lo lắng về đuổi kịp tớ,” Cian nói. “Kiểu gì tớ cũng luôn để lại một ít mà.” Cô đóng hộp bento lại với một tiếng cộp nghe rõ to. “Ba mẹ tớ muốn tớ ăn, mà nó hơi quá nhiều đối với giữa ngày.”

“Ồ thật hả?”

“Ừa. Ý tớ là, tớ không đói mấy cho tới 2 hay 3 giờ đâu. Giữa trưa mà tớ còn thấy no từ hồi bữa sáng nữa kia.”

“Cậu có biết tại sao ta ăn trưa vào buổi trưa không?” Miach cất tiếng hỏi trong khi mồm đầy cơm.

Tôi nhún vai. “Là do chúng ta đói?”

“Cian có vẻ không phải rồi.”

Tôi nhìn sang chỗ Cian, rồi cúi đầu. “Ờ nhỉ. Xin lỗi.”

“Không sao đâu, cậu không phải xin lỗi.”

“Không ai trong các cậu phải xin lỗi cả,” Miach gia nhập. “Con người đói bất cứ khi nào họ thấy vậy, trời sinh ra thế. Có điều hệ thống trường học không chấp tính linh hoạt tự nhiên của con người.”

“Maa, nếu cậu định mời một nhóm ăn, thì ăn chung với nhau có lý đấy.”

“Tại sao không thể ăn trong giờ học là điều tớ muốn biết.”

Giờ thì cô ấy mới đề cập tới, đúng là tò mò khi người ta thường đọc hay coi truyền hình trong lúc ăn, nhưng chúng tôi không được ăn trong khi đọc sách giáo khoa trong giờ học. Phải chăng là vì nó sẽ làm chúng tôi phân tâm khỏi tiết học? Nhưng thế cũng không có lý. Tiết học và bữa trưa chán phèo như nhau. Chí ít, bữa trưa mẹ tôi làm cho không bao giờ có vị đủ ngon để khiến tôi phân tâm khỏi cái gì.

“Đó là quy tắc. Những quy tắc này nhằm phân chia thời gian của chúng ta, khoanh vùng nó, điều khiển nó. Nói đúng ra, do đói bụng vào tầm 2 hay 3 giờ, hệ tiêu hóa của Cian đang đi ngược lại luật—và Cian đổ lỗi cho cơ thể của cậu ấy vì không thích nghi với chương trình. Cậu ấy trách cứ bản thân. Thế thì ngốc nghếch đến cỡ nào đây?”

Miach tới giờ nhập tâm rồi. Miach, tư tưởng gia của chúng tôi. Cô dùng đũa dồn lại một cục cơm khác, vẫn mãi nói. “Các khoảng thời gian ở trường đã không đổi từ lâu rồi. Khởi đầu là ý tưởng sẽ vui nhộn nếu mọi người ăn cùng nhau, hay là nó sẽ tạo hiệu quả hơn cho công việc, rốt cuộc nó bị chăm chút chi tiết, với thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Nó trở thành quy tắc. Cậu có biết là không hề có thứ như nhà thiết kế khuôn mẫu lối sống trước khi chủ nghĩa sinh mệnh vươn cao vươn xa không? Nhưng một khi mấy thứ như vậy trở nên phổ biến, nó trở thành điều phải làm, rồi nó trở thành quy tắc, rồi nó trở thành luật. Chỉ là một thứ vô hình thù khác ngoài kia đang cố kiểm soát cơ thể chúng ta.”

Miach cứ nói huyên thuyên không ngưng nghỉ, má cô đầy ắp cơm và chút ít đính lên trên. Cuối cùng cô ngấu nghiến chút cơm sau cùng, gói ghém hộp bento, và để lại vào cặp. Rồi cô đứng dậy mà bước tới chỗ hành lang rào quanh tầng thượng và cô dõng dạc lớn tiếng, cứ như cô đang đọc tuyên ngôn trước quang cảnh—hay thậm chí là cả thế giới này.

‘‘‘Đứng trên sự sống, qua toàn bộ những gì phát lộ, sức mạnh của cái chết thiết lập sự thống trị của nó; chết là biên giới của quyền lực, là thời khắc thoát khỏi quyền lực; chết trở thành khía cạnh bí ẩn nhất của các tạo vật, thứ “riêng tư” nhất.’’’

“Ai đã nói thế?”

“Michel Foucault.”[3]

Mặc cho bữa trưa của cô lớn hơn của chúng tôi rất nhiều, Miach đã ăn xong trước chúng tôi. Tôi ăn nốt phần cuối của mình, gói hộp bento vào mảnh vải, rồi nhét vào cặp. Một làn gió thoảng qua, lướt qua tráng và vờn tóc chúng tôi.

Chết là biên giới của quyền lực, là thời khắc thoát khỏi nó.

“Vậy đó là cách giải thoát duy nhất à?” tôi thấp giọng hỏi.

Miach vừa nhìn ra quanh thành phố, vừa đối đầu với nó. “Tớ đã từng sống ở một nơi khác, dưới ách thống trị của một quyền lực khác. Đó là địa ngục,” cô nói mà chẳng buồn quay lại. “Vì thế mà tớ đã trốn thoát, để tới đây. Nhưng nơi đây cũng điên cuồng vậy. Không có nơi nào cho con người sống cả.”

“Nó thế nào, cái nơi khác ấy?”

“Chính xác là đối nghịch với đây. Nơi đó thì súng ống giết con người. Nơi đây thì lòng tốt giết con người. Cùng một giuộc cả.”

</recollection>

Thế là tôi đã ở đây, 13 năm sau, ở cái nơi khác mà Miach từng nói với chúng tôi.

Hiện tại, vài vụ nhiễu loạn quy mô nhỏ đã xảy ra khắp toàn cầu. Lực lượng cảnh sát, vốn quen thuộc với nếp sống hòa bình thường nhật, đã lập tức bị quá tải, và nhiều thành phố cũng như sinh phủ đã khóc lóc cầu xin sự trợ giúp từ vài quốc gia còn tồn tại quân đội đứng vững.

<movie:ar:id=6aehko908724h3008k>

<fear>

Franz Recht cầm con dao vợ ông hay dùng lên và nhìn nó.

Nó là con dao bà dùng để cắt cải bắp cho món sauerkraut[4].

Con dao bà dùng để thái blutwurst[5].

Franz Recht chưa bao giờ giỏi nấu ăn lắm. Ông đã giao hết việc đó cho bà. Ông sẽ dọn dẹp nhà cửa và đi chợ, nhưng ông chưa bao giờ nấu lấy một bữa ăn. Đã lâu rồi từ lần cuối ông đặt chân vào nhà bếp.

Một khi ông trầm ngâm suy tư, mắt ông bắt đầu quay mòng. Có lẽ ông choáng váng vô số vật dụng có khả năng sát thương chí mạng mà ông tìm thấy ở đây. Thực tế thì bất kì món nào trong số chúng cũng phù hợp với mục đích lúc này của ông. Hợp lý lắm, ông nghĩ. Đây là một nơi để kết thúc và xử lý tính mạng.

Cắt, lạng, đập, đốt, hầm, hấp.

Nhiều tôn giáo có các quy tắc về thức ăn.

<dictionary>

<item>Kosher</item>

<definition>

Các hạn chế về chế độ ăn uống của những người theo niềm tin Do Thái. Vì máu là sự sống, theo lời răn dạy, máu phải bị loại bỏ khỏi thức ăn theo phương pháp đàng hoàng. Nhà bếp của một người sùng đạo nghiêm túc sẽ có 2 bể. Một cái để rút sạch máu và rửa sạch thức ăn, cái kia là để sử dụng cho bếp núc. Thịt heo, thứ chưa bao giờ được coi là sạch sẽ, bị cấm ăn.

</definition>

<item>Halal</item>

<definition>

Một trong các giáo lý của Hồi Giáo, đặc biệt là các giáo lý gắn liền với thức ăn. Halal nghĩa đen là “thứ được Thánh Allah cho phép.” Mọi loại thịt phải được mổ xả theo phương pháp gọi là dhabiha nếu muốn được halal. Dhabiha yêu cầu bạn phải dùng một con dao sắc để cắt khí quản, thực quản và động mạch cảnh một cách mau chóng, để gây ít đau đớn nhất có thể cho con vật, trong khi tủy sống vẫn còn nguyên. Rồi người chuẩn bị thịt sẽ nói “Bismillah Allahu akbar” để kêu cầu phúc lành của Thánh Allah, chỉ khi ấy thì thịt mới được coi là halal.

</definition>

</dictionary>

Đây là cách thức ăn được chuẩn bị. Chỉ được ăn sau khi tuân thủ hết các nghi thức cần thiết, phiền toái. Đấy cũng là cách giết chóc.

“Anh yêu!”

Có tiếng gọi từ cửa. Vợ của Franz đã về nhà. Mắt ông chuyển sang lối vào. Franz trở xuống sảnh để đón người vợ vừa mới vào cửa, nơi ông đâm con dao lạng thịt ông mới lấy trong bếp vào ngực bà.

Là một tín đồ Thiên Chúa Giáo khá ngoan đạo, Franz không cần phải halal hay dhabiha. Ông dĩ nhiên cũng sẽ không nói Allahu akbar. Ông chỉ cần duỗi tay để cắm con dao—cái vợ ông hay dùng để cắt cải bắp cho món sauerkraut—vào lồng ngực bà.

Mắt bà ngạc nhiên nhìn mắt ông.

Có lẽ ông đang hoảng sợ, hay có lẽ—vì là dân nghiệp dư—ông không chắc cần bao nhiêu lực để giết chết, hay liệu ông đã đâm trúng cơ quan trọng yếu hay chưa. Nên để cho chắc ăn, Franz quỳ trên người vợ đã ngã xuống và đâm bà hết nhát này tới nhát khác. Ông đâm vào ngực bà, bụng bà và mọi chỗ khác trừ đầu bà, cái đầu có khuôn mặt xinh đẹp. Ông cứ đâm mãi trong vài phút cho tới khi cơ thể bà nát bươm.

</fear>

Rồi Franz đặt một tay lên tai để gọi cảnh sát, trong lúc còn ngồi giạng chân trên xác người vợ mình. Vâng, tôi mới giết vợ tôi. Vâng. Anh biết đấy, điều mà họ đã nói, chúng ta phải giết ai đó hoặc sẽ chết ấy? Tôi phát hiện ra không có án tử hình trong quốc gia này. Và không phải là tôi có ý yêu cầu, nhưng anh có thể gửi một xe tuần tra đến bắt tôi được không? Gì cơ? Họ đi hết rồi à? Thế à, maa tôi nghĩ ai cũng bận rộn những ngày này. Bận rộn như tôi vậy.

Franz gác điện thoại và cứ đăm đăm nhìn cái thân xác dưới ông một chốc trước khi bắt đầu nhỏ nước mắt.

</movie>

“Và đó chỉ là một ví dụ,” Stauffenberg nói. Những ai tham dự họp AR đều đang đứng sững sờ, bất kể họ đang ở nơi đâu trong thế giới thực.

“Có vẻ lời tuyên bố bắt đầu có hiệu lực vào đúng ngày hôm qua. Chúng ta đã có những vụ giết người khác cũng như tự sát. Ngay cả có lệnh chặn truyền thông, ai nấy dường như đang có cùng ý nghĩ.”

Có ai đó hỏi các sinh phủ đang làm gì.

Stauffenberg lắc đầu. “Những sinh phủ có đủ tài chính để thuê lực lượng cảnh sát dân phòng đó đã gửi người đi hết rồi. Hơn nữa, ở cuộc họp cấp cao các sinh phủ, họ đã đề nghị lực lượng cảnh sát và quân đội quốc gia và, nếu có thể, quân đội Hiệp Định Geneva đi đóng quân ở mọi thành phố, nhưng tình hình đã quá khó để tìm ra toán quân rảnh rang, và nhiều nơi đã quá bất ổn để giúp đỡ. Nổi loạn và tình trạng vô trật tự đang loan rộng. Thực tế, bề ngoài cứ như sắp đến Thời Kỳ Loạn Lạc thứ hai, chí ít nên nghe các trưởng lão xác nhận. Không còn nơi nào an toàn. Giết kẻ khác, giết chính mình, hay bị giết. Quả là một công thức tuyệt vời cho hỗn loạn.”

Các hình ảnh khác nhau được đưa lên màn hình ảo. Một đống xác chết đẫm máu xếp chồng phải tới 30 cái, nằm trên một con đường lát đá ở một ngôi làng châu Âu điển hình. Lính y tế – mang mặt nạ phòng hơi ga màu hồng – đang chất các xác chết lên cái đống kia, gắng sức dọn đường để xe cộ đi qua. Một clip khác chiếu cảnh đàn ông phụ nữ đang phá xuyên các chướng ngại vật, vung gậy và ống tuýp chống lại quân đội; các nhóm quân chuyển sang dùng sóng vi ba không gây chết người để đẩy lui họ. Những người nổi loạn cứ việc chạy trốn sang một hướng khác. Bất kể binh lính có làm gì thì đều vô tác dụng.

“Ngày kia là hạn chót, có thể nói vậy. Nỗi sợ đã nuốt chửng rất nhiều người rồi, và tình hình sẽ còn tệ hơn.”

Một hình ảnh vệ tinh cho thấy một nhóm đàn ông cởi trần đứng vòng tròn quanh 2 chiến binh đang cầm dao, được ghi lại bởi máy thu hình lạnh lẽo của vệ tinh. Những kẻ đứng quanh đang hối thúc 2 người bên trong. Một khi một trong 2 người họ giết được kẻ kia, nhóm sẽ giải tán. Nếu họ có khả năng lý trí để lập quy tắc giết nhau thế này, thế sao họ lại mất đi sự sáng suốt để chọn không tin vào lời tuyên bố và cứ để cho hạn chót sắp tới? Hệ thống đánh giá theo đường hyperbol đã đánh giá quá mức nỗi sợ hãi hiện hữu và rõ ràng, làm chúng tôi hành động phi logic.

Chúng tôi đang đập vỡ heo đất với tiền vẫn còn ở trong ví.

“Hiện tại, chưa có báo cáo về án mạng trong nội bộ lực lượng cảnh sát và quân đội. Tuy nhiên, tôi sẽ không ngạc nhiên lắm nếu có báo cáo đó—chỉ là chán nản thôi.”

“Dù cho nếu kẻ sát nhân là một Đặc vụ Cục Xoắn Ốc?” tôi hỏi với hàm ý chế nhạo cay độc trong lời nói.

Môi của Chủ Tịch gầy đi, và trên mặt bà xuất hiện một nụ cười nham nhở. “Phải, dù thế. Tôi dứt khoát định ngồi yên vị cho tới giờ phút thanh toán, vì tôi tin tất cả các vị sẽ chọn vậy, nhưng với sự hỗn độn như thế trước mặt chúng ta, tôi có thể hiểu nếu các vị thấy lòng quyết tâm của mình bị thử thách. Không phải là tôi lo lắng cho cô đâu, Đặc Vụ Kirie. Cô đã giết ai đó rồi, đúng không.”

“Tự vệ thôi.”

“May cho cô đấy. Hẳn là tốt lắm khi giết mà không phải thấy tội lỗi.”

“Không phải chúng ta nên nói về tiến trình điều tra sao?” tôi hỏi, phản đòn lại lời chế nhạo của Stauffenberg bằng trách nhiệm. Chủ Tịch gật đầu lặng lẽ rồi ra dấu cho tôi tiếp tục.

“Chuyện có hơi phức tạp, nhưng thứ lỗi cho tôi. Người đàn ông tôi đã giết là một thành viên của Interpol, song hắn đã sử dụng quyền hạn đó để phục vụ cho một tổ chức bí mật mà hắn ta tham gia. Tên hắn là Elijah Vashlov. Tôi đã xác nhận đó là cán bộ điều phối tin tình báo tại Trụ sở Interpol. Nhân viên điều phối tin tình báo chịu trách nhiệm chọn lọc các tin tức rời rạc về bọn tội phạm liên đới tới thẩm quyền của nhiều chính phủ và/hoặc các sinh phủ, đồng thời giúp đàm phán các phương thức chia sẻ thông tin.”

“Nhờ đó mà anh ta xuất hiện ở cả Nhật và Baghdad.”

“Đúng vậy. Tổ chức bí mật mà hắn làm việc cho có tên là Nhóm Giám Sát Tư Cách Con Người Thế Hệ Mới. Nhóm này được sớm thành lập sau khi Thời Kỳ Loạn Lạc chấm dứt và nó bao gồm các cá nhân hàng đầu trong sinh phủ, đoàn thể công nghiệp y dược, cấp trên của WHO, và một ít nhà khoa học độc lập. Tôi không thể thu thập thêm thông tin khác từ Vashlov. Theo các thông tin tôi đã tìm được, mục đích tối hậu của nhóm này là ngăn chặn hỗn loạn toàn cầu như Thời Kỳ Loạn Lạc diễn ra thêm một lần nào nữa. Để đạt được mục đích này, họ đã tuyển mộ sự giúp đỡ của các nhà nghiên cứu y học thần kinh.”

“Cô có thể giải nghiên cứu này không?”

“Họ đang xem xét kỹ mối liên hệ giữa ý chí con người và hành động của con người. Tôi không phải là chuyên gia về lãnh vực này, nên tôi chỉ hiểu tới đó.”

“Và rồi cô đã giết người cho cô thông tin này?”

“Ba tôi cũng bị giết. Bởi Vashlov,” tôi đáp, cố kìm nén cơn giận dữ.

“Phải rồi. Tôi nghe ông ta đã đỡ đạn cho cô. Cô có thể lý giải tại sao cô đi gặp cha cô không?”

“Vì tôi đã nghe đồn ông tham gia nhóm Thế Hệ Mới. Ba tôi là một khoa học gia nổi tiếng, người đầu tiên đặt nền móng lý thuyết cơ bản biến khả năng chế tạo WatchMe và medcare thành hiện thực. Một nhóm như vậy thì dường như không thể không kêu gọi ông ấy giúp đỡ.”

“Nhưng thế vẫn chưa ổn thỏa. Nếu mọi thứ cô vừa nói là thật, vậy có nghĩa đồng chí Vashlov này đã giết cha cô dù cho họ ở cùng một nhóm.”

Tôi dành chút thời gian cho suy nghĩ. Hai người đã chết. Một là do tay tôi. Tôi chỉ tới được đây mà không để lộ cái gì. Tôi cần phải suy luận xem còn bao nhiêu lá bài tôi có thể tung ra và tôi có thể chạy xa tới đâu bằng vài lời nói dối vô hại hòng làm hài lòng Stauffenberg.

“Trong nhóm này, có hai phe, mỗi phe có lý tưởng riêng. Vashlov đã nhận mình là kẻ dị giáo trong nhóm. Tôi chỉ có thể tự suy rằng hắn đang nói tới mâu thuẫn nội bộ.”

“Và do cha cô và Vashlov đây đã chết, không còn sót chứng cứ gì để chứng minh thuyết âm mưu kia tồn tại.”

Không, không phải thế. Vashlov đã nói tôi rằng Hiệp Hội Nghiên Cứu Y Học Thần Kinh SEC đơn thuần là một lớp vỏ công khai của nhóm Thế Hệ Mới.

“Có một cộng tác viên khác tên là Gabrielle Étaín.”

“Đã chết. Vì bị giết. 3 giờ trước.”

“Cái gì?” tôi há hốc.

Stauffenberg trừng mắt nhìn tôi. “Chỉ là giết bừa, ngẫu nhiên y hệt bất kì vụ giết người nào trên thế giới vài ngày nay. Nó xảy ra vào ban ngày ban mặt, ở một hành lang trong khu phức hợp Dian Cécht tại Baghdad. Do toàn là nhà khoa học gia, những người khôn ngoan hơn dân thường, nên có ít án mạng và tự sát tập thể ở Baghdad hơn—nhưng có vài ngoại lệ. Chỉ tính trong Dian Cécht, đã có 14 cái chết không đúng lúc, bao gồm giết người và tự sát chỉ trong 2 ngày qua. Thời gian này, tình hình đang nằm ngoài tầm xử lý của bảo an và cảnh sát Baghdad.”

“Chúng ta có thể điều tra SEC không?”

“Chúng ta sẽ làm. Nhưng do đã mất một nguồn tin cực quan trọng như Gabrielle, tôi không nghĩ điều tra như vậy sẽ tiến xa—tiện thể, giờ cô đang ở đâu?”

“Trong một PassengerBird. Boong trên.”

“Đi đâu?”

“Chechnya.”

“Tại sao Chechnya? Một manh mối khác ư?”

“Tôi không nói được.”

Vậy đấy. Tôi không thể tiết lộ ý định của mình thêm. Cái tôi cần là một lời nói dối thuận tiện.

“Vashlov nói tôi là trong nhóm hắn có những thành viên nằm trong Cục Thanh Tra Xoắn Ốc. Tôi không biết sếp sẽ báo cáo lên cấp trên nào, nhưng tôi nghĩ khả năng họ ủng hộ nhóm kia cao đấy.”

Đây là lời bịp bợm tổ bố của tôi. Vashlov không nói cái gì như vậy. Mặc dù giờ tôi nghĩ lại, đúng thực ý kiến đó khá là xứng đáng.

“Nếu được chọn, tôi không ưa ra hiệu mỗi nước đi của chúng ta cho kẻ địch.”

“Ý cô là mỗi nước đi của cô. Cái chết của Reikado Cian, rồi giờ là của cha cô, trường hợp này đã trở nên khá cá nhân đối với cô rồi đấy nhỉ. Không báo trước điềm hay đâu, Thanh Tra Kirie.”

“Thế nhưng, tôi có tiến triển nhiều hơn bất kì đặc vụ nào khác.”

Stauffenberg nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi không đọc được gì trong nét mặt của bà. Có lẽ bà đang cố đọc tâm tôi. Hoặc có lẽ bà chỉ đang cố chấp nhận sự thật. Sau 5 giây yên lặng, Chủ Tịch mời mọi người khác rời khỏi phiên họp. Lần lượt, các Đặc vụ Cục Xoắn Ốc khác đăng xuất, gãi gãi đầu khi ra đi. Tôi còn một mình với Stauffenberg. Ba lấy một hơi sâu rồi nói, “Thôi được. Tôi sẽ thành thật. Là tôi đấy.”

Tôi không biết tí gì về chuyện bà ấy đang nói.

“Tôi là thành viên cấp cao trong Nhóm Giám Sát Tư Cách Con Người Thế Hệ Mới.”

Tôi cười phá lên ha hả, bởi vì cả lời bịp của tôi bắn trúng hồng tâm, và cả sự lố bịch của tình huống hiện tại của tôi.

“Vậy các người đã theo dấu tôi từ đó tới giờ?”

“Phải. Cả hai phe trong nhóm đều đã và đang theo dõi cô. Chúng tôi đã cho cô quyền hạn gần như là tự do với hy vọng cô sẽ gặp được nhóm Mihie Miach hoặc ngược lại trong quá trình điều tra của cô.”

“Vậy hóa ra không phải là vì vụ Tuareg.”

“Cô được cho phép tiếp tục hành động vì một mục tiêu duy nhất là truy ra tung tích của Mihie Miach. Cô không phải là Đặc vụ Cục Xoắn Ốc đầu tiên đày đọa mình trong chiến trường, và các hành vi lúc trước của cô hiển nhiên không đem lại cho cô chút tự do tương đối gì ở hiện tại của cô đâu.”

Thế là nhóm Thế Hệ Mới muốn Miach, và phe Miach muốn Nuada, cả hai phe đều đã và đang dùng tôi để đạt tới điều họ muốn.

“Cả hai phe các người cần truy tìm thủ lĩnh của phe kia, khiến tôi trở nên rất có giá trị vì là con gái của một người và là bạn của người kia.”

“Chỉ ngẫu nhiên là cô và chúng tôi đuổi theo cùng một người thôi. Chúng ta đã hợp tác—có lẽ là vô ý.”

“Chắc chắc là như thế rồi.”

“Thật lòng, tôi rất tiếc về cha cô.”

Xem xét vẻ mặt của Stauffenberg, bà ấy đang nói thật. Không khó để hình dung ra ba tôi là vị thủ lĩnh đáng kính của nhóm ông. Có một khoảng cách đáng nực cười giữa điều đó và hình ảnh ông bị người đàn bà kia mắng nhiếc trong phiên họp đạo đức năm xưa.

“Mihie Miach chỉ mới sở hữu một phần khả năng điều khiển cơ chế phản hồi trong não của các người dân của vài sinh phủ. Cô ta đã lẩn trốn. Chuyện họ đang làm là thao túng cơ chế phản hồi bên trong não giữa để truyền dẫn khao khát được chết, khiến con người tự sát. Chúng tôi muốn dùng cô để liên lạc với cô ta để chúng tôi có thể tìm ra mục đích của cô ta khi tạo ra tình trạng hỗn loạn hiện nay, và cố gắng dừng cô ta lại. Cô thấy đấy, chúng tôi tuyệt nhiên không biết cô ta định làm gì.”

Nếu chỉ có tôi và Cian, và chắc là ba tôi, ai mà biết được quá khứ đen tối của Miach? Mọi lời nguyền mà chúng tôi đã mộng tưởng sẽ đặt lên thế giới, khi còn túm tụm với nhau ở bàn học vào những ngày tháng học đường u ám kia. Không phải là Miach vẫn còn mang lòng căm hờn cô đã từng mang trong tim mình khi xưa đó chứ? Không phải là cô ấy đang dùng sức mạnh mới tìm thấy để hiện thực hóa ảo tưởng của mình—sức mạnh bằm nhuyễn cái xã hội cô khinh miệt quá đỗi sao?

Giả như đúng là vậy, thì tình huống bây giờ là vô cùng riêng tư đối với chúng tôi, và vì Cian và ba tôi đã mất, tôi là người duy nhất có khả năng thấu hiểu nó.

Có lý khi chậm rãi tháo gỡ gông cùm của hệ thống xã hội chúng tôi như cô ấy đang làm, dùng một nỗi sợ khốn nạn về kẻ khác để đồng thời mở ra các xiềng xích bé nhỏ quấn quanh mỗi người chúng ta—và tôi là người duy nhất hiểu.

Một thế giới mà cơ thể bạn thuộc về bạn. Đó là Miach mà tôi đã biết, giống như một đứa trẻ khao khát. Một cơ thể thuộc về cô ấy, không chịu ơn xã hội hay quy tắc của nó.

“Thế, chúng tôi có thể làm gì cho chuyện này?” Chủ Tịch hỏi.

“Ai là đặc vụ chịu trách nhiệm giám sát vấn đề đời sống giữa Chechnya và Nga?”

“Đó là…… Thanh Tra Uwe Vol.”

“Vậy sếp có thể chỉ thị anh ta giúp đỡ tôi điều tra một khi tôi đến nơi không?”

“Dễ thôi.” Stauffenberg đưa tay lên định ngắt kết nối, thì tay bà dừng lại. “Định mệnh của thế giới đang đặt trên vai cô đấy, Thanh Tra Kirie. Chúc may mắn.”

Những lời động viên cá nhân ấy chắc là thứ cuối cùng tôi có thể tưởng tượng vị sếp chua cay đến cá biệt của mình sẽ nói. Tất cả sự việc này xuất phát từ vấn đề cá nhân, hơn nữa, tôi càng tiến tới thì nó chỉ càng riêng tư. Nói thẳng thắn thì, thậm chí cả đám bạo loạn và tự tử hàng loạt kia có tiếp diễn, tôi cũng chẳng thèm lo lắng cho thế giới chút nào. Mọi việc tôi muốn làm là tìm Mihie Miach—người đã giết Cian, và chắc cũng đã giết ba tôi—và bằng cách nào đó hạ màn diễn của cô ấy. Đây là điều duy nhất khiến tôi tiếp tục di chuyển, điều duy nhất tôi cảm thấy.

Tôi off-line, cảm giác bồn chồn ở lõm thượng vị[6]. Tôi hỏi xin tiếp viên hàng không một ít caffeine. Thứ gì đó nặng một cách đáng hổ thẹn, tôi bồi thêm. Tôi không còn lo về diện mạo, và cũng đã lâu rồi tôi chưa có giấc ngủ đêm ngon lành, nên tôi cần chất kích thích.

Uwe sẽ ở chỗ nhóm quan sát hiệp ước hòa bình Chechenya. Đấy là nơi tôi đang hướng đến.

Phần: 02

Khá nhiều người trên thế giới biết rằng nguồn lợi duy nhất trong khu vực của Nga là kiểm soát đường ống dẫn dầu. Đó là cái gai trước mắt mỗi sinh phủ trên thế giới, tôi dám chắc, bởi vì chúng tôi chưa hoàn toàn giải thoát bản thân khỏi nền kinh tế dầu dứt khoát vô tâm đến môi trường. Nhiên liệu hóa thạch

<list:item>

<i: sản sinh khí cacbon dioxide.>

<i: sản sinh nhiệt.>

<i: làm ô nhiễm đất đai và không khí.>

<i: là thứ bẩn thỉu toàn diện.>

</list>

Không sạch, không an toàn, không được hoan nghênh.

Ấy vậy, nhiều nơi tồn tại các động cơ cổ điển vốn sẽ không chạy nếu thiếu dầu, lại còn các sản phẩm từ dầu. So với 100 năm trước, khi thế giới còn bám chặt vào vàng đen, thì giờ dầu đã mất nhiều nét quyến rũ rồi, dẫu nó còn bám víu vào một vị trí trọng yếu của thị trường toàn cầu.

Giống như Dubai đã trở thành trung tâm kinh tế nhờ vào thành tích lĩnh vực dầu mỏ, Baghdad nhảy phốc lên vị trí hiện tại – nhà máy điện cho kinh tế trên đôi vai của các tập đoàn y dược. Như lời cố nhân, hãy tin vào Allah, nhưng hãy chắc là đã buộc lạc đà. Trung Đông đã trải qua quãng thời gian lộn xộn của chủ nghĩa cực đoan chuyên lẩn tránh trước khi bước chân vào thời đại thực tiễn hơn, buộc-lạc-đà hơn. Các nhà nước thông minh hơn trong khu vực đã bắt đầu nhổ cọc khỏi lĩnh vực dầu mỏ.

Nhà nước kiểu cũ của Nga vẫn giữ nguyên hệ thống đơn điệu lớn nhất giữa các cụm sinh phủ – những người kiểm soát Eurasia, tuy điều này không ngăn các sinh phủ khỏi thẳng thắn chỉ trích những chính sách của người hàng xóm to quá cỡ khi động đến kiểm soát đường ống dầu. Không ít ủy viên hội đồng sinh phủ đã công khai đặt ra câu hỏi vì sao quân Hiệp Định Geneva đã kéo vào giúp Nga củng cố tuyên bố quyền sở hữu của nó.

Nga, toàn quốc gia, muốn gây chiến tranh với Chechnya. Nga, tập hợp các sinh phủ, mỗi sinh phủ muốn cứu người Chechnya khỏi đường lối không lành mạnh của họ, và mỗi người bọn họ có ý kiến khác nhau về cách tốt nhất để đạt mục tiêu. Điều này có nghĩa Uwe đang đối phó với nhiều bên hơn, ngoài các nhóm vũ trang Chechnya, chính phủ Chechnya, và chính phủ Nga. Có hơn hơn 100 sinh phủ khác nhau trong Nga, hết thảy họ đều có điều muốn nói, và toàn bộ họ đều nói cho anh ta. Háo hức muốn tạo ra sự chống lưng của quốc tế, Nga đã mời Cục Thanh Tra Xoắn Ốc tới để điều tra, rồi thì họ phát hiện ra người Chechnya đang không sống theo chủ nghĩa sinh mệnh thích đáng, đời sống lành mạnh, việc này đã tạo ra cái cớ hợp cho Nga gọi quân Hiệp Định Geneva.

Quái đản thay, dăm ba ngày vừa rồi, công việc của Uwe khá là yên ả. Tự tử hàng loạt, lời tuyên bố và Thời Kỳ Loạn Lạc có-thể-đến-lần-hai đã khiến họ bận rộn, những kẻ có trách nhiệm gửi anh hàng loạt bản bản cáo lên-đến-cơ-số-gigabyte về yêu cầu riêng—họ hoặc đang giết ai đó hoặc lẩn trốn trong nhà hay nhà nghỉ hè.

“Uwe hả? Có công vụ.”

Văn phòng Cục Thanh Tra Xoắn Ốc trong doanh trại của Nhóm Quan Sát Hiệp Ước Hòa Bình Chechnya được xây tại tàn tích của tòa thị chính cũ. Tôi ấn ngón tay lên cửa để đưa ID của mình rồi đi vào. Uwe đang ngủ trên bàn, nằm giữa một núi các bản in.

“Dậy giùm cái coi nào,” tôi nói, vừa tặng một cái vỗ vào lưng anh ta.

Anh ta chớp chớp mắt và nhìn mơ nhìn màng giây lát trước khi WatchMe của ảnh nhảy vào và kích anh ta vào chế độ báo động toàn phần. “Ô, ơ, Tuan. Đã tghe Chủ Tịch nói cô sẽ đến. Nhưng bả chẳng hạ cố nói tôi lý do.”

“Cái văn phòng của anh ở đây cũng được lắm. Không phải cả thảy chỗ giấy tờ này là nguy cơ hỏa hoạn sao?”

“Kệ nó. ThingList + NoTime = WhyClean?”[7]

“Một nạn nhân khác của ThingList, huh? Dường như ngày càng lan rộng.”

Uwe nhún vai và dọn đống giấy lắc lư từ bàn xuống sàn với một tiếng thở dài.

“Anh đã được chỉ dẫn về hành động chiến lược hiện tại của tôi chưa?”

Uwe nhếch một bên mày. “Hành động chiến lược? Tôi nghe là cô đang dẫn dắt một lữ đoàn ngốc chỉ-có-một-người-phụ-nữ mà, cô Thanh Tra Cao Cấp Kirie.”

“Chậc, vậy thì hãy biến thành 2 tên ngốc đi. Tôi cần anh giúp.”

“Để tôi đoán xem. Chuyện này phải có liên đới tới 6 000 vụ tự sát và mệnh lệnh cưỡng ép giết người,” Uwe nói, tuy nhìn cái mặt ảnh cũng biết kỳ thực anh ta không biết tại sao tôi tới đây.

“Đúng thế. Anh quen với Mặt Trận Tự Do Chống Nga phỏng?”

“Rất quen ấy chứ. Tôi sắp xếp cảnh sát bảo vệ cho cuộc đàm phán của họ mà—chúng tôi đã làm vài cuộc với họ rồi. Đang cố làm họ chấp thuận một khảo sát lối sống. Họ là mối lo ngại hàng đầu của Nga, nhưng những người mang biểu tượng này trong chúng tôi chí ít phải giả vờ là phe trung lập.” Anh ta vỗ nhẹ lên những con rắn ôm quanh cây trượng trên áo mình.

“Cái gì khiến họ thành mối lo ngại hàng đầu?”

“Họ cực kỳ giỏi trong di chuyển khắp nơi qua các dãy núi. Chiến tranh du kích tuyệt đỉnh. Với đủ vách núi và khe vực ở đây, cô thậm chí còn không thể cho một con WarDog hay WarDoll vào trận, nên chiến đấu ủy nhiệm[8] là vứt hết. Bên Nga đã và đang thuê mọi MRS họ tìm thấy được để đánh vào điểm yếu lũ kia…… và kẻ nào kẻ nấy chạy cụp đuôi ngược xuống núi. Cái họ thật sự cần là một đội tinh nhuệ—cái này thì quân đội quốc gia Nga có, nhưng họ rất miễn cưỡng để đưa lính hiện thời vào chiến đấu. Ý tôi là, đó, họ có thể chết thật. Không quần chúng ở quê nhà ủng hộ lắm. Chúng ta đã đổ hết tiền thuế vào robot, thế cớ sao các ông còn đưa người vào chỗ chết? Kiểu kiểu vậy đó. Đó là lãng phí tài nguyên con người, rồi đủ thứ.”

Vậy là Nga thất thế trước Mặt Trận Tự Do, và dầu sao đi chăng nữa thì hầu hết người dân của nó chắc đang ở Moscow và St. Petersburg đồng thời đang cố giữ cuộc hỗn loạn gần đây trong vòng kiểm soát. Nó có nghĩa sẽ có ít quân đóng cứ ở tiền tuyến. Tôi không thể nào lựa được thời điểm tốt hơn để liên lạc với kháng quân.

“Anh vẫn còn đường liên kết mở với Mặt Trận Tự Do hả?” tôi hỏi, bất chợt nhớ lại khuôn mặt của Vashlov lúc hắn hấp hối và mấp máy mấy từ đó.

“Tất nhiên rồi. Dù sao cũng là việc của tôi mà.”

“Tôi cần liên lạc với họ. Ngay bây giờ.”

Đang nheo lại vì nghi ngờ, mắt Uwe mở trố ra. Zời ạ, anh chàng này dễ đoán quá.

“Cô đùa hở? Quá nguy hiểm. Bất cứ khi nào đàm phán, chúng tôi phải đặt trước nhiều ngày một chỗ gặp gỡ và sắp xếp lính bảo vệ thuê. Đấy không phải chuyện thực hiện được ngay bây giờ hay cho dù 48 tiếng nữa.”

“Tôi không cần bảo vệ. Tôi có thứ cần gửi tới một trong các thủ lĩnh của Mặt Trận. Một thứ rất, rất nhỏ. Tôi thậm chí còn chẳng phải gặp trực tiếp họ, chỉ cần đưa nó cho ai đó có thể giao tới họ. Đừng bảo là đến mức đó mà anh còn không làm được?”

Uwe thả phịch người lên cái ghế gelatin của mình và bắt đầu nhịp nhịp một ngón tay trên cằm. Tôi đoán là anh ta chẳng lo mấy về chuyện làm sao thực hiện yêu cầu của tôi nhưng phần nhiều là tôi có đáng cho ảnh đâm đầu vào rắc rối không.

“Có biết Stauffenberg đã nói chi với tôi không?” tôi lên tiếng. Đây thật sự không phải phong cách của tôi, nhưng giả sử có cơ hội để nâng cao vị thế, thì chính là thời điểm này. “Bả nói định mệnh của thế giới đang đặt trên vai tôi.”

“Thiệt hử?”

“Cứ thoải mái gọi cho bà ấy qua HeadPhone.”

“Thôi cảm ơn. Tôi đã luôn tránh bà ấy gọi đủ rồi.”

Uwe quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi và cười mỉm. Tôi dò thấy chút mỉa mai phảng phất. “Tình hình hẳn khá là nghiêm trọng đến nỗi lôi cả Os Cara ra đấy.”

“Người ta đang chết trên khắp thế giới vào lúc này, và sẽ sớm có nhiều hơn nữa. Nếu không phải là nghiêm trọng, tôi chẳng biết là gì đây.”

Uwe ưỡn người trên ghế và cười to thành tiếng. Âm thanh vang dội qua lại giữa những bức tường trong căn phòng thênh thanh. “Không, không. Tôi ngạc nhiên là nghiêm túc về chuyện này, Tuan à. Tôi biết hồ sơ của cô rồi. Tôi đã nghe chuyện. Đừng có nói tôi là cô quan tâm đến việc đang xảy ra trên thế giới nhé. Cô có dính líu cá nhân tới vụ này, đúng không? Chuyện đó, với chuyện ba cô—nhân tiện, tôi rất lấy làm tiếc vì chuyện ấy. Với tôi, cô không gây ấn tượng là người đi trả thù, nên tôi nói là cô đang theo đuổi gì đấy. Một chút ý muốn trả thù đi kèm sẽ làm bớt đắng câu chuyện. Nè, tôi không phải là người hay chỉ trích. Tôi tới cái trại này nửa là vì rượu và hút thuốc cho bản thân. Giống như mấy gã chúng ta quen ở nhiệm vụ Niger của cô. Cô không phải là người duy nhất lang thang ngoài chốn đây để thoát khỏi gọng kìm của lòng tốt và thấy chúng phần nào là kẻ tạo ra sự khỏe mạnh của cái thế giới chết bầm này.”

Tôi đã sốc, chút chút, khi nhận ra có những tâm hồn đồng điệu khác ở ngoài đội hình mà tôi đã gầy dựng ở vị trí cũ.

“Cô đang làm vì bản thân cô. Thừa nhận đi, rồi tôi sẽ làm những gì tôi có thể để giúp cô.”

Tôi thở dài, dù nói thật là tôi không vui. Tôi đang bắt đầu thích anh chàng này. “Anh có thể nói nó là việc riêng tư.”

“Riêng tư, ể? Gợi tình ghê. Tôi chấp nhận.” Môi Uwe vểnh lên thành nụ cười và tay anh ta đặt lên một tai để gọi điện. “Gọi thằng bé ở quán Hươu được chứ? Dù gì, tôi không nghĩ là họ bận rộn mấy ngày nay đâu. Phải. Lát gặp lại.”

Quán Hươu là một nhà hàng bên kia con đường đi từ tòa thị chính cũ, nơi đặt doanh trại. Tôi hơi ngạc nhiên, họ có bia trong thực đơn. Trước đây, khách quen của họ hầu hết là viên chức thành phố. Chân dung vài người lính được in ra và treo trên tường—hồi ức của vô vàn xung đột mà mảnh đất này đã chứng kiến. Tôi hỏi về chúng và Uwe cười nín.

“Chúng không phải bản in, Tuan. Chúng được gọi là ảnh.”

“Ảnh?”

“Ừ. Khó thấy bà để làm. Cô cần có phim này, giấy in ảnh này và thuốc hiện hình. Một phương pháp thật sự khó chịu. Không phải cứ như thay khay màu trong máy in đâu.”

“Lại một dead medium nữa.”

“Tôi thừa nhận. Tùy là dead medium, nó vẫn còn sống ở những vùng này.”

“Nói tới những thứ mà tôi nghĩ là đã chết và biến mất, tôi có tí ngạc nhiên rằng họ có bia trên thực đơn.”

“Ờ. Đó là thứ những người Nga rất thích càu nhàu,” Uwe vừa nói vừa cười khì. “Tôi không thể kể cho cô biết có bao nhiêu ngàn báo cáo tôi từng đọc về ‘lượng tiêu thụ gây sốc của thức uống có cồn nguy hiểm trong cái vùng tụt hậu đáng tuyệt vọng này.’”

“Tôi hình dung được.”

“Hài ở chỗ, tôi nhìn vào đống đó và hóa ra trong hơn hàng ngàn sinh phủ trên thế giới, chỉ có 26 đặt luật thật sự về cấm cồn vào sách. Chỉ 26 sinh phủ cấm đoán uống rượu. Còn số còn lại, chỉ là chưa cấm.”

“Tôi chắc là các nhà phân tích SA có liên quan tới.”

“Ồ, tôi biết chứ. Đấy là cách điểm SA hoạt động mà. Miễn là có đủ người đồng ý về cái chi đó, thế là nó bắt đầu hiển thị lên trên điểm của ta, và trước khi kịp nhận ra, ta tốt hơn nên cư xử phải phép, nhược không lãnh đủ. Và sự bắt buộc tuân thủ được tạc vào dạ.”

Tôi cười. “Anh biết không, tôi nghĩ đây có thể là khởi đầu cho một tình bạn đẹp đấy.”

“Thật vui biết bao khi cô nói thế. Tôi không phiền đâu—ah, thức ăn tới rồi.”

Chỉ có chúng tôi trong nhà hàng. Chủ hàng mang thức ăn chúng ra trên một cái khay lớn, đặt nó lên bàn trước khi trở về bếp.

“Anh có nghĩ ông ta đang suy tư về mình nên làm gì trước hạn chót không?” tôi hỏi, mắt không rời người đàn ông đang rút lui.

“Tôi không nghĩ thế. Tôi đây chưa nghĩ tí gì về chuyện đó.”

“Vậy sao?”

“Cô có thể tin tôi hoặc không, nó không khác biệt gì với tôi cả. Tôi định đón nhận bất kỳ việc gì xảy đến vào ngày đó. Quan trọng hơn, đây là đặc sản Chechnya. Zhizhig galnash. Nói cách khác, thịt.”

Đúng thực, nó là một cục thịt trên một đống của cái gì đó trông giống mì ống. Tôi ăn, mùi thịt cừu xộc khắp khoang mũi. “Cô chấm nó với cái này này,” Uwe nói, vừa đẩy một đĩa dầu tỏi qua bàn. Nó tăng mùi vị lên thật. Ấy thế, thịt vẫn dai không tin nổi. Tôi thật sự phải loay hoay với nĩa và dao một hồi trước khi ăn được chút nào đó.

Các món ăn cứ ra. Bánh bao cừu. Rồi thêm cừu. Nôn nóng tẩy hương vị khỏi miệng, tôi gọi một ly bia—ngay trước một đồng chí Đặc vụ Cục Xoắn Ốc.

“Gọi hay lắm. Tôi cũng gọi một ly luôn. Dầu sao chăng nữa, tôi không thấy ai khác tới vào tối nay.”

“Làm sao anh lừa WatchMe?”

“Ah, thực ra là nhờ quy định của cục, các mối nguy hại cho sức khỏe do đi kèm với tiêu thụ cồn trong lúc đàm phán ở những khu vực có tục uống rượu thì sẽ không tính vào điểm SA. Những gì tôi phải làm là viết báo cáo. Cô đi theo kiểu DummyMe, tôi nói có đúng không? Kiểu tôi có mắc tí giấy tờ, nhưng thỉnh thoảng phải nộp cho cục để trình bày một ít hiểu biết phổ thông.”

“Tôi không hề biết.”

“Ít người làm lắm. Tôi đây thích tận hưởng cuộc sống hơn, nên tôi dành nhiều thời gian đi tìm lỗ hổng trong hệ thống.”

Chủ quán mang ra món pilaf[9] gà tiếp theo. Ngẩng mặt khỏi cái đĩa, tôi thấy một cậu bé đang vỗ nhẹ lên vai Uwe. Nó vào đây từ lúc nào thế, tôi tự hỏi. Dĩ nhiên là cậu ta không vào từ cửa chính rồi. Cậu đang mang một sợi dây chuyền làm từ vỏ đạn đã dùng, bên dưới là khăn choàng dân tộc được đan từ cái gì đấy. Có lẽ là một chiến binh, và là chiến binh nhí. Uwe quay qua và nói chi đấy với cậu ta, rồi cậu bé đối mặt với tôi và chìa tay ra.

“Nó bảo đưa nó bất cứ cái gì cô có cho sếp của nó,” Uwe giải thích.

Tôi lôi một mảnh giấy ra khỏi túi.

“Hả, chỉ một mảnh giấy?” Uwe hỏi, và tôi trấn an anh ta đó là tất cả. Tôi dặn cậu bé là phải chắc chắn chủ cậu nhận được, và Uwe phiên dịch giúp tôi. Cậu gật đầu, mặt cậu tỏ vẻ nghiêm túc, rồi chuồn khỏi quán qua cửa sau.

“Cô có chắc đó là tất cả những gì cô muốn đưa cho nó?”

“Chắc chắn. Tốt hơn là ăn đi. Đĩa pilaf của anh đang nguội kìa.”

“Ý kiến không tồi—và vì chúng ta tới đây vì công chuyện, không phải lo lắng về dầu mỡ hay cholesterol[10] hay vấn đề đạo đức cả. Ăn thôi!”

Chúng tôi nhét căng bụng rồi trở lại văn phòng của Uwe, nơi anh ta tìm thấy một mẩu giấy gấp đôi nằm trên bàn. Ảnh nhăn mặt. “Cô có trả lời rồi này. Nhanh thật.”

Tôi bước lên trước anh ta rồi nhặt mảnh giấy lên. Nó bắt đầu bằng một hàng số: tọa độ. Rôi chỉ độc một từ. MỘT MÌNH.

“Chỗ đó ở phííía trong dãy núi,” Uwe nói.

Tôi gọi lên WorldVision trong AR rồi nhập các số vào. Một hình ảnh đồ họa của thế giới xuất hiện và xoay tròn trước mặt tôi tới khi tôi nhìn vào Eurasia, rồi nhìn vào dãy Caucasus ở giữa biển Đen và biển Caspia. Khi kết cấu của những sườn núi trở nên trong suốt, tôi thấy mình đang nhìn vào một sườn đồi chi chít đá cùng một vài đường thẳng dựng nên bờ cạnh của một vật hình chữ nhật ở giữa.

“Đó là một boong-ke. Từ vẻ ngoài thì thấy khá cũ. Hẳn là vài tên Nga ẩn náu ở đó để tránh khỏi bom rơi trong thế kỷ vừa rồi hay đầu thế kỷ này.”

“Tôi đi đây. Anh có thể giúp tôi một đoạn đường không?”

“Cô đi một mình à? Không thể nào đâu.”

“Tôi để ý thấy con sáu-chân ngoài cửa được bọc sắt.”

“Ờ, nó có đại bác. Tôi quên mất bao nhiêu mm rồi. Nó là một con cừu cu-li chuyên chở có vũ trang.”

“Vậy tôi cần lương thực cho 2 ngày trong hành lý trên thứ đó. Nếu anh có thể tìm một cái xe tải để chở tôi và con dê đi xa nhất có thể theo đường nhựa, thế là tốt rồi.”

“Thế còn bảo vệ thuê?”

“Không cần.”

“Vậy cô sẽ có vé đi một chiều. Tôi không thể đứng chờ và nhìn cô làm vậy.”

Uwe là một người đàn ông chu đáo đáng kinh ngạc. Tôi vỗ vỗ lên vai anh ta. “Anh đã muốn tôi thừa nhận, thì nghe đây. Đây là một nhiệm vụ vô cùng cá nhân đối với tôi. Một nhiệm vụ riêng tư cùng cực.”

“Ở đây, chúng ta đang nói về mạng sống cô đó. Tôi không quan tâm lý do của cô có riêng tư tới chừng nào.”

“Không, chúng ta đang nói về sự sống của mọi công dân sinh phủ trên thế giới. So với số đó, tôi không là gì cả. Nhớ lại Stauffenberg đã nói gì đi, định mệnh thế giới ở trên vai tôi. Đây là thứ tôi cần tự lực thực hiện.”

Uwe chăm chú nhìn tôi hồi lâu, không thật sự tin câu chuyện của tôi lắm. Rồi, cuối cùng, anh nhún vai. “Cô thực sự không nghĩ gì khác ngoài bản thân phỏng?”

“Đúng thế. Như anh đã nói, tôi rất nghiêm túc về vấn đề này. Và ừ, tôi cóc quan tâm tới chuyện xảy ra cho thế giới.”

“Cô nói vậy không có tính xây dựng lắm, nhưng tôi chẳng thể nói tôi phản đối. Thì đây, hầu như tôi làm việc này vì bia và thuốc lá cho thân tôi.”

Uwe đặt một tay lên tai và bắt đầu nói với ai đó.

“Yuri hả? Alo? Uwe đây. Tôi cần ai đấy để chở một người phụ nữ và một con dê chuyên chở vào dãy núi. Ừ, lập tức.”

Phần: 03

Tôi cảm giác được gió ngày càng lạnh hơn chà xát da tôi cứ mỗi lúc đi cao hơn.

Chỉ có tôi và con dê sáu-chân ở phía sau xe. Con dê được lắp ráp để phục vụ quân đội, nên không có phần nào màu hồng. Mọi thứ là màu olive xám xịt, đen khói, bụi bẩn—sắc màu của chiến tranh. Tôi được nghe kể rằng cơ chế điều khiển con sáu-chân là gồm hệ thần kinh của ngựa nuôi được huấn luyện đặc biệt cho môi trường. Con ngựa gốc lấy từ chuồng địa phương, nên chúng đã quen với núi non, Uwe kể. Cái khuôn chữ Quân Hiệp Định Geneva khắc trên chỗ được bọc giáp dư dả. Có những phần là được nuôi, có cơ bắp được lấy ra từ một con dê núi thật, và một mạng máy phức tạp, khiến không thể biết phần lớn nó là sinh vật hay máy móc.

Con dê này không có đầu, và cần phải có trí tưởng tượng đáng nể để gọi đám thiết bị cảm ứng tủa lởm chởm từ đầu mút của nó là một cái mặt. Hình ảnh gần gũi nhất tôi có thể nghĩ là một con dê núi bị chặt mất đầu.

Xe chở chúng tôi xốc nảy, lắc lư trên đường núi một thời gian, nhưng chẳng có lấy một lần người tài xế quay lại nói chuyện với tôi. Không phải là tôi có thể đáp lời, vì tôi không biết tiếng nga. Tôi đang bắt đầu cảm thấy một sự đồng cảm kỳ lạ với anh bạn cybernetic[11] khi chiếc xe dừng một cách tròng trành.

Cửa sau mở ra, và người tài xế đang đứng bên ngoài, ra dấu cho tôi đi ra. Tôi vỗ mông con dê một cái và nó đứng lên êm ả bất chấp hành lý nặng trịch rồi nhảy xuống con đường rải sỏi. Tôi quét một hình ảnh từ trên không của khu vực quanh chúng tôi, nó được liên kết tới GPS[12] trong AR của tôi. Sẽ mất nửa ngày hoặc hơn để đi từ đây tới chỗ boong-ke. Gần như chẳng có đường lối, nhưng hình ảnh vệ tinh độ phân giải cao của tôi sẽ giúp hành trình khá là bớt khổ hơn. Tôi vẫy chào tài xế và cảm ơn anh ta. Anh ta đi ngược lại con được mà không nói một lời.

Giờ thì tôi hoàn toàn ở trong các dãy núi. Bề mặt đá của dãy Caucasus mang màu đen. Theo lời Uwe, cái tên là một từ tiếng Hy Lạp đọc trại của từ “tuyết trắng” trong tiếng Scythia cổ. Chechnya nằm ở phía bắc rặng núi, và xe tải đưa chúng tôi tới gần đỉnh của dãy núi, sát với biên giới Georgia ở phía nam. Tuyết chỉ phủ trên những đỉnh của Caucasus. Dưới độ cao 2 500 m thì toàn là đá đen và đất.

Tôi bắt đầu định vị đường đi lên tới con dốc đá, con dê khéo léo chọn đường đi theo sau lưng tôi. Tôi thấy mình như một nhà tu khổ hành trên núi đang trên đường đi gặp các vị thần, tuy ngay khi có suy nghĩ đó, tôi đã gạt bỏ nó khỏi tâm trí. Tôi không nghĩ—tôi không muốn nghĩ—Miach là một vị thần.

Trời không mây. Độ ẩm thấp, nhưng mặt trời không tỏa nắng quá ấm. Mặc cho không có đường đi, đây là nơi những lính du kích Chechnya chọn làm nhà, và tôi chẳng thấy hành trình khó khăn đến khủng khiếp. Tôi cảm giác được không khí trong phổi tôi ít hơn khi tôi leo lên. Thiếu oxy không phải là chuyện ngay cả WatchMe và medcare unit dưới da có thể sửa được. Thực tế, tôi đã offline một lúc. AR của tôi là mô phỏng cục bộ, sử dụng GPS tôi mang theo.

“Ở một mình kỳ thực cũng lý thú đấy,” tôi nói với con dê.

Con dê lầm lũi đi bên cạnh trong im lặng.

Sau 3 tiếng trong miền hoang dã không lối đi, tôi tìm được cái gì đó hao hao một con đường đàng hoàng. Theo máy định vị, tôi còn 6 tiếng nữa mới tới được đích. Con đường khá rộng—tôi còn thấy cả dấu lốp xe. Chắc là do người Nga để lại trong những cuộc xung đột lần trước ở khu vực.

Cứ lâu lâu tôi nghỉ ngơi để uống nước và làm quen với không khí. Dê vận chuyển có đơn vị tái chế cài chìm trong nó, nên nó không cần uống nhiều. Tôi sờ lưng nó, như thể nó là thú cưng vậy. Nó không khác hoàn toàn với một động vật thực. Lớp da ấm dưới lớp lông. Tôi từng một lần thấy một dân binh tham gia quân đội đã cưỡi trên thứ này, dù tôi đã quên nó là ở Niger hay chỗ nào khác ở châu Phi.

Quân đội trong vụ xung đột đó được tập hợp hoàn toàn từ các robot thế mạng điều khiển từ xa. Dân binh đã dựng xung điện từ trong khu vực, cắt kết nối giữa bộ chỉ huy và robot rồi ép chúng phải vào chế độ chiến đấu tự động. Đối mặt với đòn tấn công hoàn toàn bất ngờ từ đoàn kỵ binh cybernetic, phân đội robot thế mạng đã bị tàn sát.

Con dê của tôi có chút khác biệt so với những con thú mà họ từng cưỡi, của tôi được cải tiến động cơ đặc biệt cho vận chuyển hàng hóa trong những ngọn núi này. Tháp súng máy được thêm vào hầu như chỉ là một suy nghĩ muộn màng, nói thật tôi chẳng thấy được tác dụng. Tôi đứng dậy, cất cái ga-men vào túi của nó trên lưng con dê, kiểm tra cây súng lục trong bao súng bên hông tôi, rồi tôi trở lại hành trình trèo núi.

Leo. Nghỉ. Leo. Nghỉ. Ngay cả khi đã quen dần với không khí, tôi vẫn có thể cảm thấy sức lực mình đang hao mòn. Một cảm giác tự nhiên xảy ra do thiếu hụt oxy—một triệu chứng thể chất mà cái nhà máy medcare nội quan của tôi không thể che giấu bằng cách bóp cổ hệ thống thần kinh của tôi như cách nó đã làm khi có cơn đau hay cảm giác khó chịu khác. Một bằng chứng rằng tôi còn sống.

Lịch sử cứ tiến lên, phạm vi những trải nghiệm tự nhiên mà được coi là chấp nhận được trong cuộc sống cứ thu hẹp lại. Ở đâu, tôi tự hỏi, người ta vạch đường ranh giới ở đâu? Tại sao dựng nên một bức tường quanh linh hồn hay ý thức con người? Chúng tôi đã chinh phục hầu như mọi bệnh tật tự nhiên. Chúng tôi đã nâng thần thoại về một cơ thể con người chuẩn hóa lên thành tiêu chuẩn cộng đồng ở tầm cao mới.

Tôi thả trôi những suy nghĩ trong khi leo tiếp.

Lấy bệnh đái đường làm ví dụ. Ở hình thức nguyên thủy, đái đường là một đặc trưng do con người phát triển để đối phó với thời tiết lạnh. Nước có glucose[13] có điểm đông đặc dưới 0—có ích lợi cho những người đối mặt với sự tấn công của nhiệt độ thấp. Ngay cả nếu đường phá hủy mạch máu và thận bạn, bạn vẫn sẽ sống thêm một hay hai thập kỷ, và nếu mạch máu bạn tái sinh lại được trong quãng thời gian đó thì ấy là chiến thắng lớn cho ADN của bạn. Đái đường là bộ phận quan trọng trong quá trình tiến hóa ẩu tả của chúng ta.

Các đặc trưng thiết yếu cho sự sống trong vài ngoại cảnh nào đó sẽ trở nên vô dụng hay thậm chí là nguy hiểm khi ngoại cảnh thay đổi. Chúng ta chỉ là một tập hợp các ADN được tối ưu hóa cho địa điểm và thời gian xác định. Gen của con người là một tấm vải chắp vá từ đáp án của một ngàn vấn đề khác nhau. Dễ thấy tiến hóa là một quá trình mang đầy ý nghĩa và tiến về phía trước, trong khi chúng ta – và mọi sinh vật sống – chỉ đang xoay xở dàn xếp để sinh tồn.

Thế tại sao lại đặt ý thức con người lên bàn thờ? Tại sao lại thờ cúng tạo vật kỳ lạ mà chúng ta đã đạt được? Đạo đức, thánh thiện—đây chỉ là những thứ mà não chúng tôi đã lượm nhặt trên đường đi, những mảnh ghép của tấm vải vá víu. Chúng tôi chỉ nếm trải đau buồn và vui sướng vì chúng mang lại lợi ích cho sự sinh tồn của chúng tôi trong một môi trường cụ thể. Nói vậy chứ tôi không hiểu nổi thứ như vui sướng lại thật sự thiết yếu thế nào. Tôi cũng chẳng biết vì đâu mà đau buồn và tuyệt vọng giúp chúng tôi sống sót.

Ấy thế, tương tự như đái đường, cái gì sẽ xảy ra nếu thời hạn có ích của xúc cảm trong chúng tôi đã hết từ lúc trước? Cái gì sẽ xảy ra nếu môi trường này, vốn đòi hỏi chúng tôi cảm nhận cảm xúc và sở hữu ý thức, biến mất? Tại sao lại chần chừ cứu chữa não bộ chứa cảm xúc và ý thức của mình như chúng tôi đã từng chữa mình khỏi bệnh đái đường?

Nhân loại đã từng đòi hỏi cơn giận.

Nhân loại đã từng đòi hỏi niềm vui.

Nhân loại đã từng đòi hỏi buồn đau.

Nhân loại đã từng đòi hỏi hạnh phúc.

Từng, từng, từng.

Bia mộ của tôi dành cho một môi trường, một thời đại đã biến mất.

Nhân loại đã từng đòi hỏi niềm tin rằng “tôi” là “tôi”.

Saeki Keita, Gabrielle Étaín, và Kirie Nuada.

Cuộc gặp gỡ giữa tôi và họ đã xóa bay bất kì nền tảng trước đây tôi có để cái “tôi” tồn tại. Giống như ba tôi đã nói về những người mang gene lặng gây tật điếc đã kết hôn tại Martha’s Vineyard, thì ở đây những người mang gene lặng gây khiếm khuyết ý thức đã kết hôn, và chuyện đó là lẽ thường tình.

Có lẽ miễn là xã hội được dựng trên giúp đỡ lẫn nhau còn tồn tại, các đặc trưng lỗi thời như ý thức đã được an bài sẽ biến mất. Có lẽ chúng tôi nên nắm lấy hệ thống xã hội chúng tôi đã phát triển và quẳng đi cái ao tù sinh sôi những là đối nghịch, chần chừ, khổ não – tất cả ý thức.

Đâu rồi những lý do xác định tôi là ai?

Đâu rồi những lời nói bảo vệ linh hồn tôi?

Khao khát báo thù cho Reikado Cian và cái chết của ba tôi trong tôi, không phải chỉ là dấu tích của một chức năng từng-quan-trọng-nhưng-giờ-bị-lãng-quên của cái não giữa lạc hậu giống khỉ của tôi sao?

Trong quá khứ, tôn giáo tín ngưỡng là kẻ đảm bảo “tôi” là “tôi”. Mọi thứ đã được Thượng Đế sắp đặt, nên chúng tôi không có tư cách để thắc mắc. Hiện tại, xã hội đã đánh mất hoàn toàn các chức năng mà tôn giáo tín ngưỡng từng thực hiện. Vì một khi chúng ta đã chấp nhận rằng cảm xúc và mọi hiện tượng xảy ra trong đầu khác chỉ vỏn vẹn là những dấu ấn tình cờ có ích cho sự sinh tồn của ta vào thời điểm nào đó trong quá khứ, hầu hết các ý kiến về đạo đức sẽ mất đi nền móng tuyệt đối của nó. Đạo đức không có luận cứ thuyết phục tuyệt đối—đạo đức khách quan—thì không đáng tin. Lịch sử có thừa bằng chứng cho điều này.

Dù thế nào đi nữa, hôm nay tôi sẽ gặp Mihie Miach.

Tôi mong cô ấy sẽ có vài câu trả lời cho tất cả chỗ này.

Sau khi nghỉ ngơi vài lần nữa, tôi đến được boong-ke ngay khi mặt trời đang chìm xuống đường chân trời lởm chởm. Tôi thấy được cả những đám mây tích tụ đằng xa kia, và tôi tự hỏi mình đã lên độ cao bao nhiêu.

Một góc boong-ke thò ra khỏi mặt núi, một tấm ván bằng thép láng mượt tựa vào bờ cạnh xù xì của đá, với một ô cửa rộng mở đi vào trong nó.

“Chờ ở đây, dê con.”

Tôi dùng dấu vân tay để khóa hệ thống vũ khí của con dê và kiểm tra hàng nóng bên hông của mình.

<list:protocol>

<p: Kiểm tra lò xo trong ổ đạn.>

<p: Tháo và lắp lại đạn.>

<p: Kéo lui cái khóa nòng cho đến khi nó khóa, rồi:>

<p: Kiểm tra xem có còn viên đạn nào trong ổ đạn không.>

<p: Kiểm tra cẩn thận các bộ phận khác có hoạt động không, tùy theo loại súng cầm tay.>

</list>

“Ok. Mình làm được mà,” tôi tự nhủ, đặt chân vào boong-ke thép gia cố được xây đào vào sườn núi.

“Chào đằng đó, Tuan. Đã bao lâu rồi nhỉ, 13 năm?” một giọng nói vọng lại từ bóng tối trong buồng. Âm thanh duy nhất là tiếng nước rỉ giọt và tiếng chân tôi lê loạt xoạt trên đất. Tôi rút súng khỏi bao, tiếng động quần áo tôi cọ chà lẫn nhau ầm ĩ trong tai tôi.

“Cậu không cần súng đâu. Ở đây chỉ có mỗi chúng ta thôi, Tuan. Chỉ tớ và cậu.”

Một bước.

Lại một bước.

Tôi chỉnh AR sang chế độ tăng cường độ sáng, nhìn phía trong boong-ke được chiếu sáng lờ mờ này một cách rõ ràng hơn.

“Tớ đã biết là cậu sẽ tới mà. Tớ đã biết cậu là người duy nhất sẽ tới.”

Bây giờ thì cửa vào đã ở sau lưng tôi, nơi con dê đang kiên nhẫn chờ đợi tôi trở về.

“Tớ ngay đằng này này, Tuan.”

Mihie Miach xuất hiện như từ chốn hư không, ngay trước họng súng đã giương cao của tôi.

Cô ấy nhìn gần như giống hệt lần cuối cùng tôi gặp, khi cả hai còn là những thiếu nữ.

“Đúng là một ý tưởng tốt, mang tấm danh thiếp của tớ. Cái mà tớ đã cho cậu hồi còn ở trường phổ thông. Tớ biết đó là cậu ngay tức khắc,” Miach nói, vừa giơ tấm các tôi đã lấy ra khỏi hộc bàn ở Nhật. Cái tôi đã trao cho cậu nhóc giao liên tại quán Hươu.

“Tớ biết cậu sẽ biết chứ,” tôi nói, không thôi chĩa nòng súng vào cô ấy. “Vashlov bảo tớ là cậu ở đây.”

“Tớ rất tiếc về Vashlov, và về cha cậu.”

Lạ lùng làm sao, nghe câu đó từ miệng Miach không làm máu sôi sục dồn lên đầu tôi, tuy tôi cảm giác được một sự căm phẫn âm ỉ đâu đó tít tận dưới đáy cạnh những ký ức về Reikado Cian.

“Tớ chắc là cậu sẽ nói không có cách nào khác.”

“Ừ, tớ nói chứ. Không có cách nào khác.”

Tôi kéo cò. Viên đạn cào một đường trên gò má trắng của Miach, để lại một vệt đỏ đánh dấu đường nó đã đi qua.

“Với tớ thì không. Không ai phải chết cả.”

“Tớ có thể hiểu,” cô nói. “Và tớ hy vọng không ai khác phải rời bỏ thế giới này.”

“Xấp xỉ 6 000 người đã mưu toan tự sát, và trong số họ, gần 3 000 người đã thành công. Toàn bộ xã hội chủ nghĩa sinh mệnh đã bị nhận chìm trong mớ hỗn độn giết người bởi tuyên bố một-mạng-đổi-một-mạng của cậu. Và cậu hy vọng không có ai khác phải chết ư?”

“Chúng tớ đã phải làm vậy, bằng không mấy bô lão sẽ không nhấn nút.”

“Không nhấn nút cái—”

Và rồi mọi việc sáng tỏ đối với tôi.

Tôi biết Miach đang nghĩ gì.

Tôi biết chính xác khung cảnh mà Miach đã vẽ nên cho thế gian. Tôi đứng há hốc mồm, súng vẫn chĩa vào cô.

“Đúng thế, Tuan,” cô trả lời. “Chúng tớ muốn Harmony.”

Phần: 04

<recollection>

Ngày chúng tôi uống những viên thuốc đó.

“Tớ sẽ mang đi cùng với tớ những thứ tiếp sức cho mình,” Miach nói.

Tôi đã nhận một cuộc gọi từ cô rồi ra ngoài sông vừa lúc mặt trời sắp lặn vào đêm đó. Cô đang đổ xăng từ một cái can nhựa lên một chồng sách to ụ nằm trên bờ sông. Tôi không biết bằng cách nào mà cô ấy mang hết chúng ra đó. Tôi hỏi cô đang làm gì, trong khi nhận thức được mình đang hỏi một câu quá hiển nhiên, ấy thế vẫn cảm giác rằng đó là vai trò được yêu cầu của mình: hỏi bất chấp mọi thứ.

“Tớ sắp đốt chúng. Sạch sành sanh.”

Nếu quả thực vậy, thì núi sách đây đại diện cho toàn bộ thư viện của của cô, mà cô đã cần cù tích cóp nhờ tiền tiêu vặt bao năm. Hồi đó tôi chưa bao giờ tới nhà cô, nên chẳng có đường nào để tôi biết liệu chỗ này có phải là tất cả số sách của cô. Tuy nhiên có vẻ Miach không nói dối.

“Tớ không nghĩ mình có thể đi mà đống này còn đây.”

“Đi đâu?”

Miach vươn tay chỉ ra xung quanh chúng tôi, không, toàn thể thế giới. “Tới phía bên kia, cách xa nơi đây. Tới chốn người đời gọi là thiên đường và địa ngục. Tới hư vô. Tớ e rằng những thứ nho nhỏ này sẽ níu chân tớ lại. Bên cạnh đó, nếu tớ chờ lâu hơn chút nào nữa thì tớ sẽ quá yếu để mang chúng theo.”

Miach trút cạn giọt cuối cùng từ cái can nhựa cô mang. Cô nhìn vào bên trong và nhăn mặt, rồi hướng cái miệng can về phía tôi.

“Ự. Mùi xăng ghê quá. Ngửi tí không?”

Tôi lịch thiệp chối từ.

“Khi một hoàng đế mới lên trị vì Trung Quốc, họ sẽ đốt tất cả pho sách sử. Để họ có thể những trang sử mới,” Miach kể tôi nghe trong khi vặn cái nắp can lại.

Tôi gật đầu tán dương, tận hưởng cảm giác đồng thuận với cô ấy. Cứ mỗi khi tôi làm vậy, tưởng chừng Miach đang chép lại một chút bản thân cô lên tôi.

“Rồi, vào thời điểm nào đó, cả thế giới này sẽ trở thành một cuốn sách siêu khổng lồ,” Miach kể. Con người nghĩ họ có thể ghi chép lại mọi thứ, nên họ đã làm vậy.

Sự xuất hiện của quét CAT đã thay đổi thế giới.

Chụp tia X chỉ là các bức ảnh, nhưng quét CAT là phóng các tia X từ nhiều góc độ, kết hợp thành một hình ảnh nhờ các công thức áp dụng trên máy tính trước khi dữ liệu xuất ra dưới dạng đồ họa. Một bức ảnh chỉ là một đại diện, nhưng quét CAT là một hồ sơ.

“Cậu có nghĩ WatchMe giống một phần trong đó không?” tôi hỏi.

Miach rút vài cây diêm từ túi ra và gật gù. “Đấy là dạng tối hậu của hồ sơ cơ thể.”

Cơ thể chúng tôi đang bị thay thế bởi một hồ sơ, và mọi sự bắt đầu từ quét CAT. Cái gì diễn ra tiếp theo cũng chỉ là vấn đề về mức độ. Nó cứ liên miên, đã và đang diễn ra. Đấy là điều WatchMe dự định đạt tới. “Do đó mà tớ muốn chết khi còn là thiếu nữ, trước khi tớ cho cái thứ đó vào người mình, trước khi tớ trở thành thứ gì đó để đọc, như một cuốn sách.”

Để chứng minh cặp ngực này, cái mông này, cái bụng này, không phải là sách.

“Cậu nghĩ tại sao con người lại viết?”

Tôi nhún vai.

“Vì chữ viết sẽ còn lại. Có lẽ là tới vĩnh hằng. Hay chí ít là gần gần thế. Vì vậy Kinh Thánh được viết ra. Và kim tự tháp cũng là một kiểu hồ sơ.”

Con người đã luôn bị ám ảnh bởi tư tưởng về sự vĩnh hằng. Chưa có thời đại nào khác thuyết phục được nhiều dân chúng hơn rằng cơ thể họ là thứ bất diệt. Tuy tuổi già còn treo đó, như một tiếng gào yếu ớt hồ như không nên tiếng của thân xác tự nhiên, chắc chắn sẽ chẳng mấy chốc bị chinh phục. Tính man rợ đã bị đánh bại. “Có lẽ Thời Kỳ Loạn Lạc là một hình thức phục hồi, trả lại sự cân bằng của sự vật về trạng thái tự nhiên của nó,” Miach vừa nói vừa thở dài.

Miach bước lại chỗ tôi đang đứng sau cô, và cô nhìn tôi.

“Gì thế?” tôi nói, và cô ấn những cây diêm vào tay phải tôi rồi gấp ngón tay tôi lại quanh chúng. Đôi tay lạnh của cô chà lên da tôi làm tôi thấy khoan khoái.

“Cậu có thể làm việc này cho tớ không? Tớ đã đi tới nước này, nhưng không nghĩ mình có thể làm nốt.”

“Được thôi,” tôi đáp.

Giống một vận động viên thắp bừng ngọn lửa thiêng, tôi nghiêm trang ném cây diêm lên đống sách. Lửa bén tắp lự, hóa tro đống đó chỉ trong một khoảng thời gian ngắn nữa thôi. Mặt trời đang lặn nhuốm bờ sông bằng ánh sáng lạ lùng, trong khi ngọn lửa sáng rừng rực hắt ánh sáng của nó lên mặt chúng tôi từ bên dưới.

“Ngày xưa ở Nhật Bản họ đốt xác thế này.”

“Thật hả?”

“Tất nhiên, mọi thứ thay đổi sau Thời Kỳ Loạn Lạc.” Miach mỉm cười. Mọi thứ đã thay đổi. Sau khi cơn đại loạn bước vào siêu kiểm soát. Và nó đông đặc nhanh đến nỗi không thể nào bị lay chuyển.

“Họ gọi đó là hỏa táng. Họ sẽ đặt những thứ người kia yêu thích trong cuộc đời họ vào quan tài họ. Phong tục đó chấm dứt khi người ta bắt đầu hóa lỏng cơ thể.”

“Đây là lễ hỏa táng của cậu à, Miach?” tôi thắc mắc.

“Ừ,” cô trả lời. “Vì họ sẽ không đặt số sách này vào quan tài tớ. Chúng đã cho tớ sức mạnh, nên tớ sẽ mang chúng theo bên mình.”

Chúng tôi đứng đó một hồi lâu, tới lúc mặt trời lặn, và sách của Miach hóa tro tàn cũng như lễ hỏa táng của Miach kết thúc. Rồi chúng tôi ngồi trên bờ sông mà nhìn ra phố phường. Miach lấy một ngón tay chỉ vào các tòa nhà mà đọc tên, vừa nói, “Kia là vĩnh hằng. Kia là lâu đài của những người tin mình là bất diệt. Đó là vua. Đó là chính phủ. Chúng là những cái tên cổ đặt cho thành trì luật lệ mà các sinh phủ đã chia nhỏ chúng thành các mảnh tí hon.”

“Tớ muốn đá vào ống quyển của sự vĩnh cữu của họ. Giáng cho nó một đòn bất ngờ.”

“Tớ muốn đánh vào chỗ nào có thể đau của dòng thời gian bị đóng băng của họ.”

“Cái chết chúng ta sẽ như thế ư?” tôi hỏi. “Thế giới sẽ thay đổi không?”

“Mọi thứ sẽ đổi, vì chúng ta,” Miach đáp lời.

</recollection>

“Cuối cùng chúng ta đã tới đây,” Miach nói, và cô nhảy một điệu jig ngắn tại chỗ[14]. Tap tap tap. Cô ấy cao hơn chút, và ngực cô ấy phì nhiêu hơn của tôi. Nhưng cô vẫn là một thiếu nữ dễ thương.

“‘Cuối cùng’, ý cậu là sao?”

“Tới một thế giới lý tưởng.”

Tôi chẳng hiểu cô ấy đang nói tới cái gì.

“Tớ đang nói về Utopia[15], Kirie Tuan ạ. Một Nhà Nước Toàn Cầu. Như trong sách của Aldous Huxley.”[16]Tap tap.

“Chúng ta sẽ đấu tranh cho thiên đường, hay chúng ta sẽ đấu tranh cho sự thật? Sau Thời Kỳ Loạn Lạc, nhân loại đã chọn thiên đường. Chúng ta đã chọn sự vĩnh hằng giả mạo; chúng ta đã chọn khước từ sự thật rằng chúng ta không hơn gì một hợp thể các miếng vá thích ứng qua quá trình tiến hóa để tồn tại trong hoàn cảnh này hoàn cảnh kia. Chúng ta có thể đạt được, chỉ khi có thể chế ngự bản chất. Nếu có thể biến mọi thứ quanh ta thành nhân tạo, chúng có thể sẽ là của chúng ta. Và chúng ta đã đi tới nước không thể thối lui.”

Tôi chau mày, vẫn giương cao khẩu súng.

Không phải cậu là người ghét thế giới đó sao? Không phải cậu là người đã chối bỏ nó sao? Cậu, Mihie Miach?

Ta-ta-tap.

“Ba tớ kể tớ rằng cậu là—”

“Sự thật đó, một con người không có ý thức. Hay có thể nói, một người không cần ý thức. Tớ nên nói là mình đã là một người không có ý thức, vì tớ đã chết và tìm được cái tôi. Nó được sinh ra ở đây.”

Miach dang rộng hai tay và quay tròn như một nghệ sĩ ballet, chỉ cho tôi thấy cái hang bằng thép.

Viiuu, viiuu, viiuu.

Ngọn gió quật vào dãy Caucasus cao chót vót tạo ra âm thanh buồn bã như tiếng sáo khi nó lọt qua khe hở đi vào boong-ke.

Viiuu, viiuu, viiuu.

“Đây là cơ sở giám sát cho đường dây mãi dâm của quân đội Nga. Những cô gán chúng bắt được trên chiến trường bị lính Nga cưỡng hiếp ở đây mỗi ngày.”

Viiuu, viiuu.

“Một trong các tên cấp tướng từng hiếp tớ thường hay bắt tớ sờ vào khẩu Tokarev cổ của hắn trong khi hắn cứ đút dương vật vào tớ không biết bao nhiêu lần. Đây là súng, hắn nói, đây là thép, đây là sức mạnh—cứ như nó là dương vật thứ hai của hắn. Hắn sẽ dí nó vào miệng tớ và bắt tớ bú nó, hết lần này tới lần khác, rồi lại lần khác nữa.”

Tôi đã khóc mất rồi.

Và tự hỏi cần phải có cái loại ý thức nào để nghĩ tới chuyện như vậy và nói một cách quá ư điềm tĩnh, quá ư sáng ngời.

Viiuu, viiuu, viiuu.

Tôi đặt một tay lên miệng để kiềm lại cơn buồn nôn.

“Tớ bị nhét cây súng vào mồm, đang bôi nó bằng nước dãi của mình, khi ý thức của tớ thức tỉnh. Cái hang thép này ngập tràn các thứ dịch—tinh dịch, dâm thủy, máu, nước mắt, nước mũi và mồ hôi. Trong thứ dung dịch đó, tớ được sinh ra lần nữa.”

Ta-tap, ta-tap, ta-tap.

“Rốt cuộc, vài đội viên dân phòng và một công ty MRS do người Chechnya thuê đã giải cứu tớ. Tớ được nhận nuôi bởi một chương trình của Cục Nuôi Nhận Nhật Bản, họ đang tìm kiếm biện pháp phòng chống vấn đề suy giảm dân số, và thế là tớ đến Nhật.”

“Cậu đã kể tớ rồi,” tôi xoay xở thốt nên lời trong khi mắt và mũi rưng rưng. Phần nào đó tôi đã mất khả năng kiềm chế cảm xúc bên trong mình. “Cậu đã nói tớ rằng cậu ghét thế giới này. Thế giới yêu-và-được-yêu này đã cố siết cổ cậu bằng lòng tốt. Nhưng nó có thật sự tệ vậy không? Nó có tệ hơn Chechnya không? Xã hội chúng ta có là một nơi ghê gớm hơn cái boong-ke này?”

“Tớ đã không biết phải làm gì,” Miach nói.

Ta-ta-tap.

“Khi tớ 12 tuổi, cậu bé sống cạnh nhà tớ đã treo cổ mình.”

Ta-ta-tap, ta-ta-tap, ta-ta-tap.

“Cậu ta nói ghét thế giới này, rằng cậu ta không thuộc về nơi đây. Tớ đã suy nghĩ về chuyện đó. Tớ biết con người có thể dã man thế nào. Và tớ biết họ có thể trở nên tuyệt vọng thế nào khi cố sức trấn áp bản chất đó. Tớ nghĩ rằng xã hội này, xã hội sinh phủ, hệ thống chủ nghĩa sinh mệnh này đều sai lầm. Một xã hội muốn tớ tự điều tiết cái tôi bên trong, dầu cho trong khi mọi người đang tự sát khắp quanh tớ, nó mới kỳ lạ sao.”

Đúng là xúc cảm mạnh mẽ của Miach đã truyền cho tôi và Cian một cái nhìn khác về thế giới và về một xã hội dựa trên giám sát cơ thể, sức khỏe con người liên tục, coi chúng giá trị hơn hết thảy thứ khác. Một xã hội nơi tự giám sát bản thân nghiêm ngặt là con đường duy nhất tiến tới hòa bình và hài hòa.

“Đúng vậy, cậu căm ghét hệ thống của thế giới này. Bởi thế mà khi cậu kêu gọi chúng tớ cùng chết, tớ và Cian đã đồng ý.”

Có gì đó trong cách tôi đang nói gợi tôi nhớ lại lúc còn học cao trung, tôi đã nói thế nào. Như khi tôi còn là một thiếu nữ, ăn bữa trưa cùng với Mihie Miach và Reikado Cian.

“Nhưng tớ đã nghiệm ra vài điều khi cùng ba cậu rời đi, Tuan.”

“Điều gì?”

“Đó là con người có thể thay đổi. Nếu con người phá được bức tường ý thức.”

Ta-ta-tap tap. Ta-ta-tap tap.

“Vậy là cậu không gầy dựng đống hỗn độn này vì cậu ghét thế giới,” tôi nói, cuối cùng cũng cũng hạ súng.

Miach tiếp tục khiêu vũ cho một người khán giả duy nhất. “Đúng vậy. Tớ yêu nó. Tớ yêu nó bằng cả thân xác linh hồn mình—và tớ muốn khẳng định nó. Tớ muốn cứu chữa thế giới này khỏi sự nhiễm trùng, cái ‘tôi’ và ‘bản ngã’.” Nét mặt Miach trông nghiêm túc. Vũ điệu của cô nhanh hơn. “Tớ đã viết hầu hết mã nguồn cho mạng lưới thần kinh mà ba cậu và bạn ông cài vào não giữa của những người sử dụng WatchMe trên trái đất. Trong vài sinh phủ, có backdoor[17] trong hệ thống điều khiển WatchMe. Backdoor được dành cho chúng tớ. Đã có sẵn đường đi rồi thì dễ dàng tạo một khát vọng chết có đồ thị dạng hyperbol trong nhiều người thôi.”

Những gì họ phải làm là đặt lại giá trị của cái chết cao hơn ý chí muốn sống của nạn nhân để đám người đó quên đi khát vọng sống. Với những kẻ bỗng dưng thấy chết thật là hấp dẫn khó cưỡng – một lựa chọn nên làm, thì do họ không tránh được hiệu ứng của hệ thống đánh giá sai lầm.

“Nhưng mấy lão già khú kia sợ.”

“Những người điều hành nhóm Thế Hệ Mới.”

“Phải, và ba cậu là nhà tư tưởng đứng ở vị trí trung tâm của họ.”

“À đúng. Ông khẳng định rằng tạo ra một con người hoàn hảo cho xã hội chúng ta sẽ biến linh hồn thành tạo vật vô dụng. Buồn cười thật, phải không?”

“Tớ không cười đâu.” Miach dừng nhảy múa và đập hai tay lại thành một tiếng lớn. Tôi nghe thấy tiếng vọng vang dội đi qua cái buồng tối om. “Tớ đã nhận ra chúng ta phải làm điều đó. Ngay lúc này đang có hàng vạn thanh niên thiếu nữ đang tự sát khắp thế gian. Cả người lớn nữa. Chúng ta không bao giờ loại bỏ hoàn toàn được tính man dại khỏi con người ta cả. Chúng ta không thể quên được trước khi là tập thể các sinh phủ nhỏ, trước khi là một phần của hệ thống hay mạng lưới của quan hệ, chúng ta là động vật, đơn giản và mộc mạc—một bản chắp vá các đánh giá của chức năng, logic và cảm xúc được buộc chặt với nhau thành một gói.”

“Nên cậu nghĩ nếu con người chết vì không thể thích nghi được thế giới này—”

“Phải. Thì ta nên từ bỏ làm người ngay từ đầu đi.”

Ta-tap, ta-tap, ta-tap.

Miach trở lại và tiếp tục buổi khiêu vũ nhỏ của mình. “Do đó, chúng ta nên từ bỏ nhận thức. Chúng ta nên từ bỏ nón đồng giáp sắt và trở nên một phần của cái thế giới đang gặm nhắm xương tủy chúng ta. Chúng ta nên từ bỏ ‘là chính mình’. Loại bỏ cái ‘tôi’ và ý thức cũng như mọi thứ khác mà môi trường đã lén lút gài vào chúng ta. Chỉ khi đấy xã hội chúng ta mới đạt được sự hài hòa mà nó đang phấn đấu tới.”

Ta-ta-ta-ta-tap, ta-tap, ta-tap-ta.

“Họ từng hay dặn lính tráng rằng họ không cần phải mặc giày vừa người, họ phải chỉnh người cho vừa giày. Và chúng ta có thể làm vậy, một cách dễ dàng.”

“Nếu các bô lão đồng ý với cậu.”

Một lần nữa, điệu nhảy của Miach ngưng lại. Cô buông thõng hai vai trong tiếng thở dài thườn thượt. “Quả vậy. Mấy lão già nghĩ dấu chấm hết của ý thức là một kiểu chết. Dầu cho có một dân tộc thiểu số đã sống hàng ngàn năm trên dãy núi Caucasus mà không cần thứ gì gọi là ý thức. Miễn là một hệ thống chín chắn được vận hành, không cần phải có quyết định của nhận thức. Chúng ta có một hệ thống có lợi đôi bên đầy đủ, chúng ta có phần mềm cho ta biết phải sống thế nào, chúng ta đã khoán mọi thứ có thể, thế ta cần gì ý thức nữa? Vấn đề không phải là ý thức, mà là nỗi đau của việc có ý thức mang lại cho chúng ta khi ta bị buộc phải kiểm soát bản thân vì sức khỏe hay vì cộng đồng.”

“Chúng ta không cần ý chí, chúng ta không cần ý thức. Và chuyện này có liên hệ thế nào với sự hỗn loạn trên thế giới hiện tại?”

“Đơn giản thôi. Nếu thế giới chệnh choạng trên bờ vực của sự diệt vong, các lão già sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài nhấn nút.”

Tất nhiên. Nó quá đơn giản.

“Vậy là cậu đang đẩy họ tới chỗ phải tước đoạt đi ý thức của chúng ta?”

“Đúng thế.”

“Thế là cậu đã bí mật sắp đặt toàn bộ câu chuyện?”

“Đúng luôn. Nói đúng ra, đấy không phải là một cái nút thực. Nó là một chuỗi mã.”

Mã. Một chuỗi các ký tự bắt thế giới phải đi vào con đường định trước.

Rằng thế giới nên thế.

“Chúng tớ đã cố tự nắm lấy quyền hạn đó nhưng không thể. Đấy là khi sự chia rẽ trong nhóm Thế Hệ Mới xảy ra. Nhóm đa số tin rằng ý thức phản thân – cái phần nói rằng ‘Tôi là tôi’, phải được tôn trọng với tư cách là một bộ phận thiết yếu của nhân loại. Nhóm thiểu số, tức chúng tớ, tin rằng trong xã hội đã được hoàn thiện của chúng ta, chỉ có duy nhất não người còn tồn tại, và ý thức chỉ tổ gây đau buồn và nó nên bị quét sạch. Họ gọi chúng tớ là lũ dị giáo, vì thế mà tớ phải bỏ chạy, về lại với những người Chechnya đã từng cứu tớ trước đây.”

Miach và đồng phạm đã sử dụng quyền hạn của mình một cách tối đa.

Họ đã xâm nhập vào một vài máy chủ sinh phủ, những máy họ đã đặt cửa và họ đã thay đổi được một cách trực tiếp hệ thống giá trị trú ngụ trong não giữa của mỗi cư dân. Ấy vậy những vệ sĩ già nua, mặc cho ký ức về Thời Kỳ Loạn Lạc, và mỉa mai thay là những kẻ còn tôn sùng linh hồn, họ vẫn tin chắc vào sức mạnh ý thức con người. Theo Miach, chính ba tôi là người chủ đạo trong hầu hết các quyết định.

Tôi nhớ ngày ấy, khi tôi 8 hay 9 tuổi và khi người phụ nữ trong phiên họp đã đay nghiến ba tôi về caffeine. Bấy giờ ông đã bị khuất phục trước bà ta, lòng tự trọng của ông tan chảy như cây kem giữa ngày hè, nhưng ở đây, ông đã tin vào linh hồn con người, vào sự tồn tại của cái “tôi” cho tới phút cuối.

Tôi thấy mình càng lúc càng buồn. Buồn vì ba tôi đã chết thế nào. Nhiêu đây là dư lý do để báo thù cho ông.

“Ba cậu quááá cứng đầu đi,” Miach than, vừa cười vừa chỉ vào tôi. “Ông đã thấy hàng trăm ngàn người chết theo cách tệ nhất có thể—tự sát—và ông tiếc thương cho họ, nhưng ông vẫn tuyên bố chúng ta cần ý chí con người, ý thức chúng ta. Tớ không đồng thuận. Tớ thấy mình phải làm gì đó. Tớ muốn tạo ra một thế giới không có linh hồn, để bù đắp hàng trăm ngàn linh hồn chúng ta mất đi mỗi năm.”

Viiu, viiu, vii, viiu.

Viiu, viiu, viiu.

Gió thổi qua buồng, qua chỗ chúng tôi đang đứng.

Tôi nâng súng lên lại, đôi mắt nhắm vào ngay trái tim của Miach, họng súng chĩa vào Miach.

“Cian đã chết. Ba tớ đã chết. Cậu đã giết họ.”

Miach gật đầu, mặt cô gay gắt. “Tớ phải làm vậy. Cậu nên biết là họ được chọn ngẫu nhiên từ mọi đối tượng tiềm năng.”

“Ba tớ chết không phải là ngẫu nhiên.”

“Đúng là thế. Ba cậu chết vì niềm tin của ông.” Cô chỉ vào khẩu súng trong tay tôi. “Còn cậu thì sao, hả Kirie Tuan?”

Tôi lắng nghe giọng nói của mình ở bên trong. Liệu giọng nói này có chết khi tôi mất đi ý thức, ý chí của mình? Liệu ý thức của tôi, cá tính của tôi, sẽ tan biến, để lại mỗi một hệ thống đằng sau? Để lại mỗi một cái tôi minh bạch? Liệu tôi sẽ làm tất cả những gì phải làm theo lý, không bao giờ phân vân, luôn luôn làm việc, vô vàn chức năng của tôi sẽ được tự động sử dụng?

Một bộ não hài hòa là một bộ não đã gạt đi mọi thứ mù mờ. Không, là vứt bỏ.

Không có sự mù mờ, thì không có sự lựa chọn. Không có sự lựa chọn, mọi thứ đều dễ dàng.

Tôi hiểu rằng mọi thứ quanh tôi sẽ có ngoại hình chính xác như cách nó luôn có. Nếu ý thức con người chưa bao giờ hoàn thành được thứ gì quá quan trọng, mất mát của nó chẳng thay đổi mấy.

Con người đi mua sắm, cứ như thuở xưa họ đã từng.

Con người đi làm, cứ như thuở xưa họ đã từng.

Con người sẽ cười cứ như thuở xưa họ đã từng.

Con người sẽ khóc cứ như thuở xưa họ đã từng.

Tất tần tật phản ứng sẽ trở nên rành mạch và đơn giản. Làm bởi chúng là thứ bạn có bổn phận phải làm.

Không phải đây chỉ là nghi thức chuyển giao mỗi chúng ta phải đi qua để tạo ra sự vĩnh hằng đang đến sao?

Tôi nghĩ chắc là vậy.

Không phản đối.

“Nên cậu muốn trở lại cuộc sống không có ý thức của mình. Trở lại thiên tính mà dân tộc cậu từng có.”

Miach nhìn xuống, rồi khe khẽ gật đầu. “Có lẽ là thế thật. Phải, tớ nghĩ cậu đúng.”

“Vậy gạt chuyện đó sang bên thì có lẽ tớ có thể trả thù rồi.”

“Hử?”

Miach chớp mắt. Trả thù? Cứ như cô ấy chưa một lần xem xét đến ý nghĩ này trong suốt thời gian tôi đang tìm đường tới chỗ cô ẩn náu, mang theo cái chết của Cian và ba tôi.

Chừng đó đủ khiến tôi muốn bật cười. Cô ấy là Mihie Miach chính cống, cô gái này đây. Lạ lùng là, tôi thấy khuây khỏa làm sao.

Nè, Miach. Cậu có biết bao nhiêu lần tớ đã nghĩ tới giết cậu từ thời khắc khuôn mặt của Reikado Cian đập lên đĩa caprese của cậu ấy cho tới khi tớ tìm được đường tới chỗ trú của cậu ở Chechnya không?

“Cian đã không cần phải chết. Vì vậy mà cậu đã gọi cho cậu ấy để bảo cậu ấy phải chết.”

“Cậu nghĩ vậy à?”

“Cậu phải thanh minh cho ý thức của chính cậu, đối diện với một thực tế đã được sắp đặt trước và không thể nào dừng lại.”

“Tớ không chắc lắm.”

Tôi gật đầu, siết chặt bàn tay trên tay súng. “Do đó tớ sẽ trả thù cho Cian và ba tớ, ngay tại đây.”

“Bằng cách nào?”

“Tớ sẽ biến thế giới cậu luôn mong muốn thành hiện thực. Và tớ sẽ không để cậu tham gia vào nó.”

Viiu, viiu, viiu.

Tôi kéo cò.

Thụp, Miach ngã lên mặt sàn bằng thép.

Cùng với một âm thanh nhỏ bé dường như được moi ra từ cơ thể, một tiếng rít the thé bật vội ra từ miệng cô nói rằng “Giờ cậu sẽ tha thứ tớ chứ?”

“Cho Cian và ba tớ?”

“Ừ.”

“Tớ đã trả thù xong rồi.”

Tôi khuỵu xuống chỗ cô nằm và đưa tay vuốt tóc cô. Một dòng máu đỏ rò ra từ khóe miệng cô trông đẹp đẽ trên làn da trắng muốt của cô. Đôi mắt cô nhìn xuống một cách yếu ớt, nhìn vào mặt sàn nơi lũ đàn ông đó đã bộc lộ thú tính của mình.

“Làm ơn, mang tớ theo cùng cậu.”

“Tới đâu?”

“Tới nơi…… tớ nhìn được dãy Caucasus.”

Máu Miach đang chảy ra từ hai lỗ đạn tôi tặng trên ngực cô.

Một cho Cian.

Một cho ba tôi.

Tôi vất cô trên vai và bước qua buồng. Đúng như Miach luôn nói. Như Uwe nói. Tôi không quan tâm tới chuyện xảy ra cho thế giới. Bất chấp quần chúng có đang đập vụn những người lính mặc màu hồng ngụy trang và bất chấp những vũ khí vô dụng không-gây-chết-người của họ có làm gì. Bất chấp người ta có dùng dao đâm chém người kia. Bất chấp các trưởng lão có nhập dòng mã cuối cùng để dừng mọi chuyện.

Tôi mang Miach ra một góc boong-ke, nơi nhô ra ngoài sườn núi tựa một sân khấu. Tuyết ùa vào cửa vào đang mở toang hoang.

Tuyết trắng trên núi đen.

Tôi thấy chúng cao vời vợi, đỉnh chúng được băng che phủ.

“Cậu sẽ ở lại và quan sát chứ?”

“Quan sát gì?”

“Quan sát ý thức của tớ kết thúc.”

Tôi gật đầu.

Tôi đã bắn những viên đạn. Chúng được bắn không bởi ý chí của ai khác ngoài của tôi.

Tôi đã làm. Tôi đã làm.

Tôi.

Làn khói trắng của hơi thở cuối cùng phù ra nơi miệng Mihie Miach.

Cơ thể cô ấy, não cô ấy, mất đi thân nhiệt, và ý thức cô ấy—thứ làm nên Miach—tàn lụi, nhờ vào một cơ chế đơn giản, cổ xưa có tên là chết. Nó chẳng phân biệt ý thức của cô ấy là một bản sao trong não.

Trong giây lát, tôi đứng lặng trong những hạt tuyết cuồn cuộn bay vào buồng.

Tiếng một giọt máu rơi rớt từ chiếc vỏ hết hạn của Miach làm tôi tỉnh lại.

“Ở đây lạnh lắm,” tôi nói với bức phông của núi non, vẫn giữ Miach trong vòng tay.

Tôi cảm thấy một cơn lạnh bò qua má tôi.

Tôi tự hỏi thân xác tôi sẽ chấm dứt ở đâu và gió lạnh bắt nguồn từ chốn nào.

Đường ranh giới đã mờ nhạt sẵn trong tâm trí tôi.

Viiu, viiu, viiu, viiu.

Tạm biệt, tôi.

Tạm

biệt,

t—

</body>

</etml>

<null>[18]tôi</null>

↑ hộp cơm trưa của người nhật

↑ Brown fat, hay brown adipose tissue

↑ Triết gia người Pháp (1926-1984). Xem thêm ở đây . Câu nói trên được trích từ “Lịch sử tính dục” (Histoire de la sexualité). Trên đây người dịch chỉ dịch theo ý cá nhân.

↑ dưa món của Đức

↑ dồi của Đức

↑ nơi lõm đầu dưới xương ức

↑ Ý là “đã có ThingList mà lại không có thời gian thì cần quái gì sạch sẽ?”

↑ tức gửi kẻ khác thế mạng ra đánh

↑ cơm thập cẩm Trung Đông

↑ một loại chất béo gây xơ cứng động mạch

↑ điều khiển được qua hệ thống thông tin và vi tính

↑ Global Positioning System - hệ thống định vị toàn cầu

↑ một thành phần của đường

↑ jig là một điệu nhảy phổ biến, có nguồn gốc từ nước Anh

↑ Địa Đàng Trần Gian, do Thomas More viết về một thế giới không tưởng

↑ Aldous Huxley là một nhà văn Anh. Ông từng viết cuốn “Brave New World”(Thế Giới Lý Tưởng), có đề cập tới World State - Nhà Nước Toàn Cầu

↑ “cửa hậu”, thuật ngữ tin học, dùng để chỉ một loại phần mềm có hại được cài vào máy tính nạn nhân nhằm tự mở ra một cổng dịch vụ cho phép kẻ tấn công có thể điều khiển máy nạn nhân từ xa

↑ vô hiệu hóa