Đầu hạ, thành Thanh Luân.

Sắc trời vàng vọt, đại mạc mệnh mông, rặng núi trơ trụi, là nơi diễn ra trận chiến cuối cùng. Đại điện hạ, Thành Vương, Triệu Sơ Túc, Bộ Thiên Hành thống lĩnh hàng vạn đại quân tề tựu tại cổng thành phía Bắc. Phá Nguyệt đứng bên cạnh Bộ Thiên Hành.

Đã ba tháng trôi qua kể từ khi Bộ Thiên Hành lấy trộm chiến xa. Một tháng trước, Đại Tư mô phỏng chế tạo thành công, quân Thanh Luân không còn ưu thế.

Cổng thành đã bị phá, trên thành lầu rất nhiều nơi bị cháy, tường thành đen kịt, tàn tạ, liên tục có binh lính Thanh Luân từ trên đầu thành rơi xuống. Hôm nay, cuối cùng quân Đại Tư cũng đã bao vây binh lực của Triệu Phách.

– Báo… – Một binh sĩ của quân tiên phong xông tới trước mặt Đại điện hạ và các vị tướng lĩnh khác. – Trong thành, trong thành…

– Thế nào? – Mộ Dung Lan biến sắc, còn tưởng Triệu Phách có mai phục.

– Treo cờ trắng! – Vẻ mặt của binh sĩ có vẻ cổ quái.

Một tuần hương sau, tiếng chém giết ngừng hẳn.

Dưới sự tháp tùng dày đặc của hàng trăm quân lính, các tướng lĩnh cưỡi ngựa vào thành, leo lên thành lầu, nơi này có thể quan sát tình hình của toàn bộ thành Thanh Luân. Cảnh tượng trước mặt khiến tất cả mọi người đều im lặng.

Người, toàn bộ là người.

Hàng ngàn, hoặc có thể là hàng vạn người Thanh Luân đều quỳ rất ngay ngắn dưới thành lầu, dày đặc như mặt biển màu xanh sẫm.

Người đầu tiên mặc giáp bạc, thân hình vạm vỡ, trước mặt là lá vương kỳ Thanh Luân rách nát tả tơi. Hắn cúi đầu, hai tay giơ cờ trắng, chẳng phải Triệu Phách thì ai?

Mộ Dung Lan là người đầu tiên mỉm cười:

– Người người đều biết Triệu Phách là anh hùng, ta thấy hắn chẳng qua chỉ là con chuột nhắt, biết đã thất thế liền dứt khoát đầu hàng! – Chúng nhân sau một thoáng chấn động ngắn ngủi đều lên tiếng phụ họa:

– Đại điện hạ nói chí phải!

– Tên tặc tử này đâu thể là địch thủ của điện hạ?

Bộ Thiên Hành và Mộ Dung Trạm đưa mắt nhìn nhau, không ai lên tiếng. Phá Nguyệt cũng im lặng.

Lúc này Triệu Phách ngẩng đầu nhìn lên thành lầu. Mặc dù không trông rõ dung mạo của hắn, nhưng bất giác chúng nhân đều rùng mình trước ánh nhìn của hắn.

– Đại điện hạ! – Giọng hắn như chuông đồng, vang vọng trên dưới thành lâu, – Thắng làm vua, thua làm giặc, Đại điện hạ dụng binh như thần, bách chiến bách thắng, Phách nay chiến bại, tâm phục khẩu phục. Nguyện thống lĩnh hơn vạn tàn quân để tỏ lòng trung thành.

Chúng nhân đều nở nụ cười, Mộ Dung Lan lộ vẻ kiêu ngạo.

Phá Nguyệt thì nghĩ, rốt cuộc Triệu Phách định làm gì? Chẳng nhẽ trong thành vẫn còn mai phục? Nhưng bốn cổng thành đều bị quân Đại Tư không chế, hắn sao còn có khả năng lật ngược thế cờ?

Hắn lại nói tiếp:

– Điện hạ, chư vị tướng quân, Phách tự biết tội nghiệt rất nặng, chết không đáng tiếc. Nhưng những tướng sĩ và tộc nhân Thanh Luân này đều vô tôi. Họ chỉ theo Phách khởi binh, mục đích không phải là phản bội Đại Tư, chỉ là để… tiếp tục được sống. Phách to gan thỉnh cầu điện hạ, có thể xin Hoàng thượng miễn trừ nô tịch cho tộc Thanh Luân? Miễn trừ số lượng trưng thu nô lệ hàng năm? Nếu điện hạ đồng ý, Phách xin lập tức tự vẫn để cảm tạ điện hạ, tộc Thanh Luân nguyện đời đời kiếp kiếp trung thành với Mộ Dung thị, tuyệt không hai lòng!

– Xin điện hạ miễn trừ nô tịch, đời đời trung thành với Mộ Dung thị! – Hàng vạn tướng sĩ đồng thanh hô to, chấn động màng nhĩ.

Trên thành lầu là một sự im lặng chết chóc, tất cả mọi người đều nhìn Mộ Dung Lan. Sắc mặt hắn thoáng thay đổi, lạnh lùng nhìn Triệu Phách. Triệu Phách trầm giọng nói:

– Thanh Luân vốn không có lòng làm phản, xin điện hạ nhân từ!

– Xin điện hạ nhân từ! – Vạn người phụ họa.

Sắc mặt Mộ Dung Lan vô cùng khó coi, Triệu Phách đã ra cho hắn một câu hỏi khó, ai cũng biết Hoàng đế rất kiên trì trong việc duy trì chế độ nô lệ ở Thanh Luân, không ai có thể lay động. Nay Triệu Phách chơi trò này với hắn, nếu hắn từ chối thì sau này e rằng nô lệ Thanh Luân trong thiên hạ đều chỉ nhớ tới sự máu lạnh vô tình của Mộ Dung Lan hắn. Hắn suy nghĩ rất nhanh, quyết định đá quả bóng này trả cho Triệu Phách.

– Ha… – Mộ Dung Lan cười khẩy, nói, – Triệu Phách, ngươi mở miệng là nói không có lòng làm phản, nay chỉ dựa vào lời nói của mình ngươi mà muốn bổn vương hứa sao? Người làm thế nào để chứng minh ngươi không muốn làm phản? Đừng có dây dưa thêm nữa, mau ra lệnh cho quân của ngươi đầu hàng!

– Làm phản? Ha ha… nếu có thể yên ổn sống qua ngày thì ai còn muốn làm phản? – Triệu Phách nói to, – Nếu Phách có thể chứng minh, điện hạ có đồng ý cho ba mươi vạn người tộc Thanh Luân một lời hứa không?

– Được thôi. – Mộ Dung Lan lạnh lùng nói. – Ngươi chứng minh cho bổn vương xem trước.

Nói thì chậm, khi đó mọi việc diễn biến rất nhanh. Triệu Phách rút thanh đao ra, cứa lên cổ mình, máu tươi lập tức phun thành vòi! Hắn chống đao xuống mặt đất, quát to một tiếng:

– Thanh Luân không muốn làm phản!

Các phó tướng hai bên trái phải đều hoảng hốt bi thống, lao lên đỡ lấy hắn. Thân hình cao lớn của hắn vẫn sừng sững không đổ, ánh mắt kiên nghị, khí đã tuyệt. Hơn vạn tướng sĩ vốn lặng yên bất động, lúc này nhất tề biến sắc, đau đớn kêu lên:

– Đại vương!

Khắp nơi trên thành lầu đều là binh sĩ Đại Tư, thấy chúng nhân tỏ vẻ bi phẫn, lập tức giương cung ngắm xuống dưới, đề phòng sinh biến. Mộ Dung Lan không ngờ Triệu Phách lại hành động quả quyết như vậy, biết rằng cơ hội mong manh, nhưng vẫn lựa chọn cái chết. Nay quả bóng lại lăn về phía mình, tình thế còn tệ hơn cả lúc trước.

Hắn càng nghĩ càng giận dữ, chỉ muốn mau chóng kết thúc cục diện này, lạnh giọng quát:

– Kẻ ngốc nói mơ! Trói hết lại! – Quay người định bước xuống thành lầu.

Nhưng người Thanh Luân đâu chịu từ bỏ.

– Điện hạ! – Đột nhiên có người quát lên, là phó tướng của Triệu Phách. Đó là một tướng quân trẻ tuổi, ôm lấy thi thể của Triệu Phách đứng lên nói – Đại vương đã chết, ngài có tuân thủ lời hứa, xin với Hoàng thượng tha cho tộc Thanh Luân không? – Câu chất vấn của hắn khiến các tướng sĩ còn lại đều nhìn lên thành lầu.

– Bổn vương đồng ý lúc nào? – Mộ Dung Lan giận dữ nói, – Tộc Thanh Luân các ngươi đời đời là nô lệ, đó là di mệnh của cao tổ. Nay các ngươi khởi binh làm phản, còn vọng tưởng bãi trừ chế độ nô lệ ư, thật là nực cười.

Tướng quân trẻ tuổi đó khựng lại, bật cười ha hả, rồi thê thiết nói:

– Triệu tướng quân, ngài chết uổng rồi! Ngài đã từng nói, Thanh Luân yếu ớt, trận chiến với Đại Tư chắc chắn sẽ thất bại. Nhưng đó là để chứng minh với thế nhân, người Thanh Luân không phải là hạng nô lệ hèn kém, người Thanh Luân cũng có máu thịt. Nhưng nay ngài chết uổng, hàng ngàn hàng vạn tộc nhân vẫn đời đời là nô lệ. Cái mạng hèn này mạt tướng không cần! Mạt tướng sẽ đi theo ngài! – Rồi đột ngột rút thanh đao ở thắt lưng ra, tự vẫn không chút do dự.

Hai đại tướng chết trong vũng máu, hàng vạn tướng sĩ Thanh Luân chìm trong sự yên lặng chết chóc, tất cả đều nhìn chằm chằm vào hai thi thể dưới đất, vô hình trung có một cơn sóng ngầm dâng lên. Binh tướng Đại Tư bên này đưa mắt nhìn nhau.

Bộ Thiên Hành là người đầu tiên cảnh giác, chàng đi tới trước mặt Đại điện hạ, vái lạy, trầm giọng nói:

– Điện hạ, nơi này có rất nhiều binh lính Thanh Luân, đề phòng sinh biến!

Mộ Dung Trạm cũng đi tới bên cạnh Mộ Dung Lan:

– Lan Nhi, có lẽ nên vỗ về hàng quân…

– Vương thúc, người muốn cháu vỗ về thế nào? – Mộ Dung Lan lạnh lùng nói, rồi lại nhìn Bộ Thiên Hành, – Bộ tướng quân, ngài nói đúng. Bảo quân của ngài trông chừng bọn chúng, một khi có biến thì giết không cần hỏi.

Ý của Bộ Thiên Hành cũng như Mộ Dung Trạm, hy vọng Mộ Dung Lan vỗ về hàng quân Thanh Luân trước. Không ngờ Mộ Dung Lan lại quyết tuyệt như vậy, bất giác lửa giận bốc lên, ngoài mặt thì mỉm cời:

– Điện hạ nói chí phải! Mạt tướng tuyệt không nương tay, ai mà vọng động, lập tức làm theo lời điện hạ nói, giết cho sạch sẽ. Chỉ có điều sau này Đại Tư bắc phạt Quân Hòa, thiếu mất tộc Thanh Luân, đáng tiếc, đáng tiếc!

Mộ Dung Lan á khẩu. Hắn biết Bộ Thiên Hành đã nói đúng vào mấu chốt vấn đề, sau này chắc chắn Đại Tư sẽ Bắc phạt, tộc Thanh Luân hiện nay có tới hơn mười vạn, tuy rằng nay làm phản, nhưng chắc chắn đã được Hoàng đế quy thành một lực lượng trong tương lai. Nếu hôm nay khiến họ càng oán hận, thì sau này chỉ sợ không dễ tuyển binh. Nhưng hắn cũng hiểu rõ, nếu hôm nay hắn đồng ý thay người Thanh Luân cầu xin Hoàng đế thì sẽ tự đẩy mình vào thế tiến thoái lưỡng nan. Hắn không ngốc vậy đâu. Thế là hắn sa sầm mặt, không lên tiếng.

– Á! – Chúng nhân trên thành lầu thốt lên kinh hãi, Phá Nguyệt bịt chặt miệng mình.

Chẳng ai ngờ được rằng Thanh Luân binh không bạo động vì cái chết của chủ tướng. Họ lựa chọn phương thức khác để bày tỏ nỗi bi ai và sự đấu tranh mạnh mẽ của mình.

– Người Thanh Luân không muốn làm nô lệ! – Đó là tiếng hét bộc phát từ lồng ngực của một nam nhân.

Các tướng quân Thanh Luân ở hàng đầu tiên nhất tề rút đao ra, hành động chỉnh tề như thao luyện thường ngày. Ánh bạc lóe lên, máu phun thành vòi, đồng loạt ngã xuống.

– Người Thanh Luân không muốn làm nô lệ. – Các quân quan trung cấp hàng thứ hai ngã xuống.

Sau đó là hàng thứ ba, hàng thứ tư…

Không ai biết đây là sự sắp đặt của Triệu Phách, hay là hành vi tự phát của các tướng sĩ. Nhưng trên dưới thành lầu, hàng vạn binh sĩ Đại Tư đều nhìn thấy, tướng sĩ Thanh Luân đổ rào rào xuống như người ta gặt lúa.

Khi đấu tranh chỉ là uổng công, khi đầu hàng không thể đổi lấy lòng thương xót, họ lựa chọn cái chết để bày tỏ ý chí của mình.

Bộ Thiên Hành nhíu mày thật chặt, Mộ Dung Trạm biến sắc, các tướng sĩ còn lại đưa mắt nhìn nhau, các binh sĩ Đại Tư đua nhau bỏ cung tên trong tay xuống, yên lặng tới lạ kỳ.

– Người Thanh Luân không muốn làm nô lệ!

Âm thanh ấy vẫn còn vang vọng.

– Không! Không! – Bên dưới thành lầu vẫn còn chúng bách tính Thanh Luân không sợ chết, họ vốn rụt đầu rụt cổ đứng rất xa, lúc này tất cả đều đờ đẫn, vừa khóc, vừa gào lao tới. Binh trận Đại Tư vốn chặn giữa bách tính và quân Thanh Luân lúc này bỗng mềm oặt như miếng đậu phụ, dễ dàng bị đẩy ra, mặc cho đám người già, phụ nữ yếu ớt xông vào chỗ quân Thanh Luân, điên cuồng tìm kiếm người thân của mình.

Vậy mà không một lính Thanh Luân nào lay động, không một ai lên tiếng. Các binh sĩ ở hàng sau đã giơ sẵn đao, lặng lẽ chờ đợi. Binh sĩ hàng trước ngã trong vũng máu, đôi mắt trợn trừng như chờ đợi điều gì đó sau cái chết.

– Đại điện hạ! – Bộ Thiên Hành cố gắng cất giấu nỗi căm ghét trong lòng, quỳ lạy Mộ Dung Lan, – Xin hứa với họ đi! Họ cũng là con dân Đại Tư!

Mộ Dung Lan mím miệng, sắc mặt tái xanh. Triệu Sơ Túc tựa như không nghe thấy, nhìn sang hướng khác. Một phụ tá bên cạnh Mộ Dung Lan quát to:

– Bộ tướng quân thật to gan, có phế bỏ chế độ nô lệ hay không là chuyện triều chính, đâu thể cho ngài nhiều lời!

– Lan Nhi! Hứa với họ đi! – Mộ Dung Trạm đứng thẳng, sắc mặt vô cùng khó coi.

Mộ Dung Lan nhìn họ một cái:

– Thập thất thúc nói nghe thật dễ dàng. Nếu bổn vương đồng ý thì sẽ trúng gian kế của Triệu Phách. Lời của Thập thất thúc trước nay luôn có trọng lượng trước mặt Phụ hoàng, sao lại xúi giục cháu?

Câu này nói quá thẳng thắn, có lẽ vì cũng chấn động bởi người Thanh Luân.

Mộ Dung Trạm thoáng chấn động, ánh mắt sa sầm.

Sắc mặt Bộ Thiên Hành vô cùng lạnh lùng, lúc này bất chấp việc mình cấp bậc thấp kém, lời nói không có trọng lượng, bước lên đang định nói thì Mộ Dung Trạm đã lao tới bên cạnh chàng, đập tay lên ụ tường, đề khí quát:

– Dừng tay! Ta là Thành Vương Mộ Dung Trạm! Những gì các người cầu xin hôm nay, Mộ Dung Trạm sẽ gánh vác! Các người không cần chết nữa!

Giọng nói sang sảng và kích động, vang vọng khắp khoảng trời trên thành Thanh Luân. Vô số bàn tay đang cầm đao vì câu nói này mà khựng lại trong không trung.

Bốn bề lặng ngắt như tờ.

Mộ Dung Lan thoáng sửng sốt, nhưng trên gương mặt lại ẩn hiện vẻ giễu cợt; Triệu Sơ Túc không nói một lời, Bộ Thiên Hành hân hoan nhìn Mộ Dung Trạm. Tim Phá Nguyệt đập thình thịch, nhìn vào tấm lưng của Mộ Dung Trạm, huyết mạch toàn thân tựa như cháy lên sau câu nói này của chàng.

“Những gì các ngươi cầu xin hôm nay, Mộ Dung Trạm sẽ gánh vác!”

Họ chẳng qua chỉ là những nô lệ hèn kém, một dân tộc hoàn toàn không có liên quan gì tới lợi ích của chàng, thậm chí còn mang tội phản loạn. Chế độ nô lệ đã tồn tại từ lâu, văn võ bá quan trong triều trước nay không người nào dị nghị. Chàng vốn là một vương gia nhàn tản, trước giờ không hỏi tới chính sự, hôm nay lại trượng nghĩa tương trợ!

– Thành Vương, ngài thực sự không lừa chúng tôi chứ? – Một binh sĩ Thanh Luân hét vang, giọng nói run rẩy.

Mộ Dung Trạm lặng lẽ đứng trên ụ thành, chiến bào màu đen, mái tóc đen nhánh, nổi bật gương mặt trắng như bạch ngọc của chàng. Vạt áo tung bay, thần sắc nghiêm nghị, giống hệt một vị thần đang đứng trên đám mây cúi nhìn chúng sinh dưới nhân gian.

Giọng của chàng chậm mà trầm:

– Những gì Mộ Dung Trạm nói, từng lời từng chữ đều xuất phát tự đáy lòng! Chư vị, thân thể tóc da là của cha mẹ ban cho, đường đường là một nam nhi sao có thể coi thường mạng sống? Tuy các người chiến bại, nhưng vẫn là con dân Đại Tư, chỉ cần đời đời trung thành với Đại Tư, không có lòng khác. Hôm nay ta sẽ giục ngựa hồi kinh, cầu xin hoàng huynh thay các người!

Sau giây phút trầm lặng, vô số tiếng “keng keng” vang lên, đao kiếm của người Thanh Luân đều rơi xuống đất.

– Thành Vương!

– Thành Vương!

Binh sĩ nhất tề quỳ bái trong vũng máu.

– Thành Vương từ bi! – Họ đồng thanh hô to, rất nhiều âm thanh đã nghe nghẹn ngào.

– Thành Vương từ bi! – Tiếng hô này này vang vọng rất lâu, kết thành một chuỗi, không còn phân biệt được đó là giọng của các tướng sĩ hay là của tộc Thanh Luân trong thành.

Mộ Dung Trạm đứng chắp tay, thần sắc kiên nghị. Bộ Thiên Hành vỗ mạnh lên vai chàng:

– Làm tốt lắm. – Mộ Dung Trạm quay đầu mỉm cười.

Mộ Dung Lan cười khẩy, xuống khỏi thành lầu. Triệu Sơ Túc và các tướng sĩ khác lại gần, vái lạy Mộ Dung Trạm:

– Thành Vương từ bi! – Bộ Thiên Hành quỳ lạy, Phá Nguyệt đứng ngoài cùng, cũng lặng lẽ vái lạy.

Mộ Dung Trạm quay người lại nhìn chúng nhân, mỉm cười điềm tĩnh:

– Chư vị không cần đa lễ. Lời hứa của ta của với tộc Thanh Luân hôm nay không liên quan gì tới chư vị.

Chúng tướng đứng lên, không ai nói gì. Duy chỉ có Bộ Thiên Hành là cười sảng khoái:

– Ai nói là không liên quan? Thành Vương, mạt tướng nguyện cùng ngài tiến lùi. – Hai người nhìn nhau cười, Bộ Thiên Hành quay đầu nói. – Nguyệt Nhi qua đây! – Phá Nguyệt ngoan ngoãn tới bên cạnh chàng, ba người sánh vai nhìn các quân Thanh Luân đang được binh sĩ Đại Tư chỉnh đốn dưới thành lầu, trong lòng thoáng thấy nặng nề, nhưng cũng không một chút hối hận với những gì mình vừa làm.

Đại quân khải hoàn trở về còn phải mất rất nhiều ngày, Mộ Dung Trạm tuân thủ lời hứa, ngay hôm đó khởi hành về Đế kinh. Chạng vạng một tháng sau, chàng đã quỳ trên thềm đá bên ngoài điện Cần Chiếu.

Chàng đợi suốt một canh giờ mà Hoàng đế vẫn chưa triệu kiến. Tình huống này lần đầu tiên xảy ra. Các quan viên khác đi ra đi vào, ai nấy đều thận trọng, không dám nói tiếng nào.

Cuối cùng, Thái hậu bị kinh động, sai nữ quan tới điện Cần Chiếu, mang trà và bồ đoàn cho Mộ Dung Trạm. Lúc này thái giám mới tuyên Mộ Dung Trạm tấn kiến.

Mộ Dung Trạm vào trong khấu đầu, ngước mắt lên, chỉ thấy vạt áo bào vàng rực lặng lẽ trước mặt.

– Hoàng huynh, thần đệ có chuyện khởi tấu. – Chàng thong thả kể lại những điều mình thấy ở thành Thanh Luân, và cả những suy ngẫm về mặt lợi mặt hại do chế độ nô lệ mang lại.

Sau một tuần hương, cuối cùng giọng trầm thấp của Hoàng đế cũng vang lên. Nhưng lời của ngài như tiếng sấm giữa trời quang, khiến Mộ Dung Trạm kinh hãi.

– Trạm Nhi, đệ muốn ngồi lên hoàng vị này không?

Mộ Dung Trạm vội vã ngẩng lên, dung nhan Hoàng đế tiều tụy, mệt mỏi. Hôm đó khi chàng rời kinh, Hoàng đế đã bệnh nhiều ngày, nay lại càng nặng thêm. Bất giác chàng tạm gác lại việc chất vấn Hoàng đế chuyện của Thanh Luân, lo lắng hỏi:

– Hoàng huynh! Long thể người…

– Khốn kiếp! – Hoàng đế quát lên, sau đó ho liên tục. Mộ Dung Trạm bất chấp lễ tiết quân thần, lập tức đứng lên, vuốt nhẹ lên lưng ngài, Hoàng đế ngước nhìn chàng, giận dữ không nói.

Khi Hoàng đế đã ổn hơn, Mộ Dung Trạm lại quỳ xuống. Hoàng đế lạnh giọng:

– Đệ còn chưa trả lời.

Mộ Dung Trạm lập tức phủ phục xuống:

– Hoàng huynh, thần đệ chưa bao giờ vọng niệm, trời đất chứng giám.

– Vậy vì sao đệ lại cầu xin thay cho tộc Thanh Luân? – Hoàng đế vỗ bàn, thở hổn hển, – Tự tìm đường chết!

Mộ Dung Trạm thoáng chấn động, hơi hiểu ra, nhưng lại không muốn từ bỏ chuyện tộc Thanh Luân, chỉ khấu đầu thật mạnh:

– Hoàng huynh! Tộc Thanh Luân cũng là con dân Đại Tư! Xin hoàng huynh khai ân.

Hoàng đế cười lạnh:

– Chấp mê bất ngộ! Trẫm hỏi đệ, hôm đó khi Bộ thiên Hành bị bao vây ở thành Thanh Luân, vì sao mười ngày viện binh vẫn chưa tới?

Mộ Dung Trạm trầm mặc không nói.

– Trẫm trả lời đệ, vì đệ đã làm dấy lên lòng đố kị của Lan Nhi! Bởi vì Bộ Thiên Hành là cánh tay phải của đệ! Thế nên nó muốn diệt trừ hậu hoạn!

Mộ Dung Trạm chẳng còn lời nào để nói, chỉ liên tục khấu đầu. Hoàng đế đau lòng, thở hổn hển:

– Trẫm sẽ không trách tội Lan Nhi, còn khen nó làm tốt! Nó là đứa giống trẫm nhất trong số các hoàng tử, nó sinh ra là để ngồi lên hoàng vị này! Nếu ngay cả thủ đoạn này cũng không có thì sao trẫm có thể an tâm cho nó kế thừa ngôi vị? Đệ thì sao? Thành Vương từ bi, Thành Vương từ bi! Chưa nói tính tình của tộc Thanh Luân hung hãn, từ khi khai quốc đến nay đã làm phản ba lần, sao có thể tin được? Hôm nay đệ xuất đầu lộ diện vì tộc Thanh Luân, nhận được sự ủng hộ của ba mươi vạn người Thanh Luân, nổi bật như vậy. Ngày nào đó trẫm về trời, Lan Nhi ắt sẽ động thủ với đệ, ai là người bảo vệ cái mạng cho đệ?

Mộ Dung Trạm không thể ngờ Hoàng đế lại nói thẳng như vậy, mồ hôi đầm đìa, lại khấu đầu thật mạnh.

– Lui xuống! Sau này đừng nhắc tới chuyện của tộc Thanh Luân nữa!

Nhưng Mộ Dung Trạm vẫn bất động.

Hoàng đế nhìn chằm chằm sống lưng thẳng tắp của chàng, hơi thở càng lúc càng gấp gáp.

Mộ Dung Trạm cúi đầu, thật sâu, giọng run rẩy mà từ tốn:

– Hoàng thượng, thần đệ… cầu nhân đức mà được nhân đức, không thẹn với lòng.

Một sự tĩnh lặng chết chóc bao trùm toàn bộ điện Cần Chiếu. Hai người chỉ cách nhau một bậc thềm, lặng lẽ nhìn nhau.

Sau một khoảng thời gian rất dài, Hoàng đế cất tiếng.

– Viết chỉ. – Ngài lạnh nhạt nói, thái giám vội vã cúi người.

– Thứ nhất, lập Đại hoàng tử Mộ Dung Lan làm Thái tử. Thứ hai, Mộ Dung Trạm lập làm Thanh Luân vương, thống lĩnh ba châu Thanh, U, Bình. Tộc Thanh Luân được miễn trừ nô tịch, trong vòng một tháng phải tập trung hết về ba châu. Mộ Dung Trạm tự ý hành động, phụ sự kỳ vọng của trẫm, mãi là Thanh Luân vương, cả đời không được về Đế Kinh.

Mộ Dung Trạm thất sắc:

– Hoàng huynh! Đệ, đệ…

– Lui xuống đi, sau này trẫm không muốn nhìn thấy đệ nữa. – Hoàng đế chầm chậm khép mắt lại.

Thái giám khó xử mời Mộ Dung Trạm rời đi, đương nhiên chàng không nghe, quỳ bò tới chân Hoàng đế, liên tục dập đầu:

– Hoàng huynh! Đệ không muốn làm Thanh Luân vương. Người cho đệ ở lại Đế Kinh làm thứ dân cũng được! Đệ, đệ rất lo lắng tới sức khỏe của người, đệ muốn được hầu hạ bên người!

Hoàng đế hít sâu một hơi, đột ngột đưa tay ra, xoa đầu chàng, thở dài một tiếng:

– Ý trẫm đã quyết, sau đại lễ phong thưởng cho Bắc Lộ quân, đệ lên đường đi. – Hoàng đế đứng lên, thái giám dìu ngài rời khỏi điện Cần Chiếu, cuối cùng vẫn quay nhìn Mộ Dung Trạm một cái.

Mộ Dung Trạm quỳ ở điện Cần Chiếu từ khi đêm tới sáng, cuối cùng thất thểu rời khỏi tẩm cung, quay về Vương phủ, nhớ tới giọng nói, nụ cười của hoàng huynh, lại càng xót xa không thôi.

Sao chàng không hiểu, đây là cách hoàng huynh bảo vệ mình? Thậm chí chàng còn cho rằng, có lẽ hoàng huynh đã sớm định ra nước cờ này? Ngài vẫn giữ nô tịch của người Thanh Luân là để chờ chàng tới cầu xin? Ngài muốn giữ lòng dân của ba mươi vạn người Thanh Luân ở ba châu lại làm chỗ dựa cho chàng sau này?

Rốt cuộc hôm nay Hoàng đế đã đi nước cờ này là vì sức khỏe của ngài đã không còn được như xưa sao?

Chàng càng nghĩ càng buồn, cuối cùng ôm rượu uống một trận say mèm, bất tỉnh.

Mấy ngày sau, Bộ Thiên Hành, Phá Nguyệt theo đại quân khải hoàn về kinh.

Người Đại Tư vốn chuộng võ, nhân thắng lợi khi tiêu diệt phản quân Thanh Luân, trong ngoài Đế Kinh nơi nơi đều giăng đèn kết hoa, chúng nhân hân hoan đón anh hùng Bắc phạt. Bộ Thiên Hành là ngôi sao mới nổi trong quân đội, theo chư tướng dự yến ba ngày liên tiếp. Phá Nguyệt chẳng có hứng thú nên sống chết cũng không chịu đi. Chàng cũng không nỡ để vẻ đẹp yêu kiều của Nguyệt Nhi thu hút ánh mắt dòm ngó của nhiều người nên để nàng lại dịch quán, một mình đi dự yến.

Không ngờ mấy ngày sau lại có vô số nhà quyền quý tỏ ý muốn liên hôn với chàng. Khi nghe chàng nói mình đã có hôn phối, họ đều ngạc nhiên và thất vọng. Cũng có gia tộc không ngại gả thứ nữ cho chàng làm thiếp, Bộ Thiên Hành cười ha hả, đáp:

– Được ngài để mắt tới là phúc ba đời của mạt tướng. Chỉ là thê tử tôi còn nhỏ tuổi, nhõng nhẽo lại ghen tuông rất đáng sợ, võ nghệ còn cao hơn cả tôi. Năm xưa… haiz, tôi chỉ cần nhìn nữ tử khác một cái mà nàng đã móc mắt nữ tử đó ra. Nếu tôi nạp thiếp, e rằng sẽ bị rút gân chặt xương.

Trước đó đã từng có lời đồn phu thê liên thủ chống địch giữ thành, nay chàng lại nói thế, quả nhiên đã dọa những kẻ có ý định liên hôn sợ chết khiếp. Bộ Thiên Hành thì tiêu diêu tự tại, còn Phá Nguyệt thì vang “danh” khắp kinh thành.

Hôm nay, khi Bộ Thiên Hành dự yến quay về dịch quán, vừa bước vào cửa đã thấy Phá Nguyệt chắp tay ngồi trước bàn, gương mặt sa sầm nghiêm nghị.

Chàng vốn hơi say, cười tươi lại gần, cúi đầu định hôn. Phá Nguyệt tránh đi, đá vào mông chàng. Chàng loạng choạng vài bước, ngã ra giường, cười nói:

– Nương tử… sao lại nổi giận?

Phá Nguyệt cười cười:

– Thiếp có giận đâu! Chẳng qua thiếp tuổi còn nhỏ, lại quen nhõng nhẽo, ghen tuông vô lối, rút gân chặt xương, giết người thôi mà. Thiếp là ác thê như thế nên không có việc gì thì đánh phu quân một trận cho vui!

Bộ Thiên Hành bật cười, ôm eo nàng, hơi thở phả lên mặt nàng:

– Đó là kế ứng phó của ta thôi, nếu không thì làm sao để vừa không đắc tội với các quý nhân, lại vừa giữ được sự trong sạch? Ta chỉ cần một mình nương tử, ta là người của nương tử.

– Hứ! Giữ sự trong sạch có nhiều cách lắm! Sao chàng không nói, mình bất lực? – Phá Nguyệt giận dữ trừng mắt, – Lại để cho thiếp mang tiếng ác thê! Chàng không biết, mấy hôm nay có người nhìn thấy thiếp là đi đường vòng! Thiếp tới phòng ăn ăn cơm, chẳng ai dám ngồi cùng bàn với thiếp!

Bộ Thiên Hành nghe mà xót xa, nghiêm túc gật đầu:

– Nương tử dạy rất phải! Sau này ta sẽ nói là mình bất lực.

– Thế cũng không được! – Phá Nguyệt không tha, – Thiếp càng mất mặt!

Bộ Thiên Hành cười vang, ôm nàng ngồi xuống giường, dỗ dành:

– Đừng nói mấy việc vớ vẩn này nữa. Nương tử, nguyệt sự của nàng hết chưa?

Phá Nguyệt đỏ bừng mặt. Dọc đường hai người theo đại quân thúc ngựa ngày đêm, đã hơn tháng rồi chưa gần gũi. Khó khăn lắm mới chờ được tới ngày đến Đế Kinh, Bộ Thiên Hành từ chối mọi lời mời, hai người hoan hỉ đi tắm, nằm lên giường, thì thấy… Bộ Thiên Hành chỉ biết thở dài khi nhìn vị tiểu huynh đệ của mình.

Sau đó Phá Nguyệt mềm lòng, chủ động giúp chàng một phen, Bộ Thiên Hành vui vẻ thoải mái, nói mình lời quá. Có điều mấy hôm sau, chàng càng muốn xuất đao ra trận hơn.

Thực ra Phá Nguyệt cũng muốn. Điều này trước nay chưa từng xảy ra. Nhưng từ khi làm thê tử chàng, nàng cũng có những ham muốn bình thường. Có điều nàng vẫn còn bận tâm tới việc khác, không đáp mà hỏi:

– Hôm nay chàng gặp Tiểu Dung không? Huynh ấy khỏe không?

Chính Ngọ trưa nay, Bộ Thiên Hành đi tìm Mộ Dung Trạm. Lúc này nghe nàng nhắc tới Tiểu Dung, sắc mặt trầm xuống.

– Vẫn khỏe. Chỉ là hơi lưu luyến Hoàng thượng.

Phá Nguyệt gật đầu:

– Đúng là Hoàng đế đối với huynh ấy rất tốt. Khi nào huynh ấy đi Thanh Luân? – Thì ra thánh chỉ sắc phong Thái tử và Thanh Luân vương đã được chiêu cáo thiên hạ từ mấy ngày trước. Hai phu thể hiểu rõ con người Đại điện hạ như thế nào, cảm thấy đi Thanh Luân sẽ tốt hơn cho Tiểu Dung.

Bộ Thiên Hành đáp:

– Sau đại lễ phong thưởng cho Bắc Lộ quân ngày mai. Đúng rồi Nguyệt Nhi, ta đã hứa với Tiểu Dung một chuyện.

– Chuyện gì?

– Đệ ấy muốn sau này chúng ta theo đệ ấy định cư ở Thanh Luân. – Bộ Thiên Hành nở nụ cười không mấy quan tâm. – Ta đồng ý rồi. Đệ ấy nói chờ sau khi bên ấy yên ổn sẽ xin ý chỉ của Hoàng đế, phái ta qua đó thay đệ ấy lĩnh binh.

Phả Nguyệt gật đầu, nàng không quan tâm lắm chuyện sẽ ở đâu. Đế Kinh phồn hoa cũng được, Thanh Luân xa xôi cũng được, đối với nàng mà nói, chẳng có gì khác biệt cả. Nàng cười nói:

– Thực ra cũng tốt, trời cao Hoàng đế ở xa, tự do tự tại. Khi nào chiến sự kết thúc, hai chúng ta chu du thiên hạ, rảnh rỗi thì dừng chân lại chỗ Tiểu Dung.

Bộ Thiên Hành càng cười sâu hơn, cúi đầu ghé sát vào đôi môi đỏ của nàng:

– Nương tử, chúng ta quả nhiên là phu thê đồng tâm. Nương tử, trước mắt không cần lo cho Tiểu Dung, quan trọng hơn là… nguyệt sự hết chưa?

– Chưa đâu! – Phá Nguyệt cố ý làm khó.

Bộ Thiên Hành tỏ vẻ thất vọng, bế nàng từ trên đùi đặt xuống đất. Phá Nguyệt thấy hành động này của chàng có chút mất mát, quay người bỏ đi thì đột nhiên bị kéo mạnh, ngã nhào vào lòng chàng.

Chàng nắm tay nàng vuốt ve bờ hông, giọng khô khốc, không rõ là đang cầu xin hay là đang ra lệnh:

– Nương tử… cho ta vui vẻ một lần đi.

Qua lớp vải, Phá Nguyệt có thể cảm nhận được bàn tay nóng rực, bất giác mặt mũi đỏ bừng. Bộ Thiên Hành cũng đỏ mặt, nhưng hành động không chút chậm trễ, kéo nàng đến giữa hai chân mình, cởi thắt lưng, để lộ mọi thứ trước mắt nàng.

Cảnh tượng ấy khiến Phá Nguyệt càng thêm xấu hổ, nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc. Đây là nam nhân đã dùng sinh mạng để yêu nàng, chàng và nàng đã thân thiết vô bờ, cùng tận hưởng cơ thể của nhau…

Đặt tay lên cơ thể chàng, tuy rằng không phải lần đầu tiên nhưng vẫn nghe thấy chàng thở khẽ một tiếng. Sau đó chàng vươn tay ra, không hề yếu thế khi chạm vào đôi gò bồng đảo của nàng. Phá Nguyệt cũng rên khẽ một tiếng, hai người nhìn nhau, ánh mắt Bộ Thiên Hành sâu thẳm, gò má ửng hồng; mặt Phá Nguyệt thì như có lửa đốt, không dám nhìn vào đôi mắt cháy rừng rực của chàng.

Lặng lẽ thân mật hồi lâu, Phá Nguyệt ngẩng đầu, thấy hai má chàng đã đỏ bừng, đôi mắt đẹp thoáng khép lại, thở hổn hển.

Trước đây mỗi lần thân mật đều vào ban đêm và ở trong chăn. Đây là lần đầu tiên Phá Nguyệt nhìn rõ Bộ Thiên Hành. Bộ Thiên Hành trong ký ức của nàng là một nam nhân giết kẻ địch vô cùng tàn nhẫn trên chiến trường, là anh hùng tiêu dao trên chốn giang hồ, không câu nệ tiểu tiết, đâu có bộ dạng như ý loạn tình mê, thậm chí là tỏ ra yếu ớt như thế này trước mặt nàng?

Phá Nguyệt bỗng cảm thấy nơi sâu thẳm trong cơ thể mình nóng lên, ma xui quỷ khiến, nàng buông tay ra, cúi xuống. Đầu lưỡi mềm mại đảo quanh, bao bọc, vuốt ve chàng, chàng rên lên một tiếng, chỉ hận là không thể chết trong tay nàng.

Lần này, Bộ Thiên Hành rất nhanh đã buông vũ khí đầu hàng. Phá Nguyệt không kịp tránh, ho sặc sụa, giận dữ đẩy chàng ra. Chàng bật cười khe khẽ, bế nàng lên, rồi ôm nàng ngã ra giường, thở hổn hển.

Phá Nguyệt nằm trên ngực chàng, nghe tiếng tim đập mạnh mẽ, lại thấy tiến thoái lưỡng nan.

Chàng thì sảng khoái rồi, nhưng nàng vẫn khó chịu. nhưng ban nãy nàng lừa chàng, nói nguyệt sự chưa hết, nàng nào biết mình giúp chàng thoải mái lại khiến bản thân rơi vào tình huống khó xử!

Muốn được thoải mái lại còn phải giữ thể diện, cuối cùng Phá Nguyệt lựa chọn thể diện.

– Ngủ đi… – Phá Nguyệt bò xuống khỏi người chàng, quay lưng về phía chàng.

– Ừm. – Bộ Thiên Hành đáp rất bình thản, lại thở ra một hơi, – Nương tử, ban nãy ta dễ chịu lắm.

Phá Nguyệt cong miệng lên, chỉ vì một câu nói của chàng mà thấy như được thỏa mãn. Không ngờ chàng đột ngột chuyển hướng:

– Nương tử, nàng có muốn được dễ chịu thế không?

Phá Nguyệt ngẩn người, phản ứng lại, gò má lập tức nóng bừng, mắng yêu:

– Vớ vẩn! Nguyệt sự của thiếp còn chưa hết…

Cơ thể bỗng nhẹ bẫng, bị chàng bế lên rồi lại đặt xuống.

– Chàng làm gì thế? – Phá Nguyệt run rẩy.

Bộ Thiên Hành nắm lấy thắt lưng của nàng:

– Ban nãy khi vào phòng, nương tử đá ta một cái. Bây giờ đến lượt ta tính sổ…

– Chàng cũng đá thiếp một cái là được chứ gì! – Phá Nguyệt định ngồi dậy, nhưng bị chàng ấn xuống, một tay còn lại của chàng cởi dây lưng của nàng ra.

Trong chiếc váy chẳng có gì, nào có dấu hiệu của nguyệt sự? Bộ Thiên Hành cúi đầu nhẹ nhàng hôn nàng, khàn giọng nói:

– Nương tử nghịch ngợm quá… nguyệt sự đã hết rồi.

Phá Nguyệt muốn từ chối, nhưng bị chàng hôn khiến toàn thân run rẩy, lại nằm im bất động.

– Sao chàng biết?

– Ta có thể ngửi được. – Chàng cười khẽ. – Trên người nàng không còn mùi nữa. Với lại tính ngày thì cũng đến rồi.

– Mũi cẩu!

Bộ Thiên Hành không lên tiếng, chậm rãi cúi xuống.

Cả người Phá Nguyệt run rẩy, mềm nhũn:

– Đừng mà…

Bộ Thiên Hành nhanh nhẹn giữ lấy hông nàng, giọng đầy mê hoặc:

– Nguyệt Nhi… ngoan…

– Nhưng… như thế rất dơ..

– Đừng ngốc vậy… nó chẳng khác nào suối ngọc… ngoan, để phu quân nếm thử. – Hơi nóng của chàng phả vào nơi sâu thẳm trong cơ thể nàng, – Có thể có ích cho luyện công…

Phá Nguyệt vốn đang căng thẳng, nghe chàng nghiêm túc nói tới chuyện luyện công, bất giác bật cười. Đang định đáp trả chàng vài câu thì bỗng cảm thấy như bị điện giật tê dại cả người, Phá Nguyệt không chịu nổi khẽ giãy giụa, Bộ Thiên Hành thấy dáng vẻ mê loạn của nàng thì lại càng cuồng nhiệt hơn.

Rất nhanh, Phá Nguyệt cảm thấy toàn thân run rẩy dữ dội, tuyết lở sụt xuống vực sâu vạn trượng, cơ thể như muốn rách toạc.

Cảm giác ấy thực sự quá mạnh mẽ, nàng thở ra một tiếng, trong vô thức tránh người đi. Nhưng Bộ Thiên Hành đâu chịu, giữ lấy hai chân, nâng nàng lên cao, trong một thoáng liền tiến sâu vào cơ thể nàng.

Bộ Thiên Hành đã không còn vẻ đùa cợt ban nãy, gương mặt nghiêm nghị, mồ hôi rơi như mưa, chỉ muốn hòa tan trong cơ thể nàng. Phá Nguyệt chưa bao giờ cùng chàng trong tư thế này, chàng điên cuồng chuyển động. Những con sóng ào ạt như điện giật nối tiếp nhau, lớp này phủ lên lớp kia, khiến nàng mơ màng, trôi dạt trong biển tình.

Cuối cùng hai người đồng thời rên lên một tiếng. Phá Nguyệt run rẩy, Bộ Thiên Hành ôm nàng vào lòng, ngã ra giường. Hai người dán sát vào nhau, lặng lẽ tận hưởng cảm giác như lên thiên đường.

Rất lâu sau, Bộ Thiên Hành mới rời khỏi người nàng, vẫn ôm chặt nàng, nói khẽ:

– Nương tử, ta vẫn muốn tiếp.

Phá Nguyệt xấu hổ vô cùng:

– Không được.

Bộ Thiên Hành đặt tay lên người nàng, bị nàng đẩy mạnh ra:

– Mai chàng còn phải nhập cung diện thánh, giờ là canh tư rồi, đi ngủ đi.

Bộ Thiên Hành nghe nàng nói rất có lý, đành phải thôi, cắn vành tai nàng:

– Thế mai ta sẽ về sớm.

Phá Nguyệt vùi đầu vào ngực chàng, khẽ gật đầu.

Chàng vẫn không chịu buông tha, dỗ dành:

– Nương tử, nàng “ăn” rất ngon… như nước đường ấy…

Phá Nguyệt vừa thẹn vừa vui, cười mắng:

– Không được nói nữa.

Chàng nhìn người ngọc đang cuộn tròn trong lòng mình, càng nhìn càng thấy yêu, trêu chọc:

– Đúng rồi nương tử, ta cảm thấy chân khí trong cơ thể lại đầy thêm mấy phần, xem ra… sau này để luyện công, hằng ngày phu quân đều phải uống dòng suối ngọc đó mới được…

– Đừng hòng! Cút!

Mặt trời mọc.

Cửa dịch quán vắng tanh, trên đường không một bóng người. “Kẹt” một tiếng, cánh cửa đẩy ra, Bộ Thiên Hành mặc bộ giáp sáng ngời, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, dắt ngựa bước ra.

– Đi cẩn thận nhé. – Giọng nói trong trẻo vang ra. Bộ Thiên Hành mỉm cười, quay trở vào. Người trong cửa lập tức im bặt. Lát sau mới nghe tiếng nữ tử cười khẽ:

– Không nghiêm túc.

Lúc này Bộ Thiên Hành mới đi ra, leo lên ngựa, nói khẽ:

– Nàng quay về ngủ tiếp đi. – Chớp mắt người đã chẳng thấy đâu.

Cánh cửa dịch quán khép lại.

Mộ Dung Trạm đứng trong một ngõ nhỏ cách đó vài trượng, nhìn con đường trống trải, lặng lẽ không lên tiếng.

Hôm nay là ngày chư tướng Bắc phạt diện thánh. Vốn dĩ chàng định hỏi hoàng huynh chân tướng sự việc của Sở Dư Tâm năm xưa, nhưng từ sau khi được phong làm Thanh Luân Vương, nhiều lần cầu kiến Hoàng đế đều bị từ chối nên chàng không có cơ hội.

Điều duy nhất chàng có thể làm là ngày hôm nay ngăn cản Bộ Thiên Hành diện thánh. Có điều chàng hiểu rõ tính cách của hoàng huynh, hoàng huynh trước giờ vốn là người coi trọng nhân tài, cho dù hiện tại chàng nghĩ cách ngăn Bộ Thiên Hành nhập cung thì ngày mai hoàng huynh có thể sẽ triệu kiến riêng Bộ Thiên Hành, như thế chẳng phải chữa lợn lành thành lợn què?

Cũng may tướng lĩnh tiến cung rất nhiều, theo như thông lệ thì các võ tướng này phải đứng cách xa hai, ba trượng, quỳ bái, nhận phong thưởng của Hoàng đế. Nếu không có gì bất thường, thì có lẽ Hoàng đế sẽ không nhìn rõ diện mạo của Bộ Thiên Hành.

Mộ Dung Trạm quay người đi về phía Hoàng cung, hôm nay đành phải đi bước nào hay bước ấy. Nhưng chàng sẽ không để bất cứ ai phá hoại hạnh phúc của hai người họ.

Trong điện Minh Loan, đèn đuốc ngập tràn, huy hoàng lấp lánh. Trong tiếng trống nhạc du dương, các vũ nữ uốn thân hình yểu điệu, cuốn hút bao ánh nhìn lưu luyến của chư tướng.

Một khúc nhạc kết thúc, chúng nhân đều cảm thấy hài lòng vui vẻ, tân Thái tử là người đầu tiên vỗ tay:

– Hay! – Hắn ngồi ở bàn đầu tiên bên phải Hoàng đế, cách nơi đó chừng vài trượng, đối diện với Triệu Sơ Túc, bên cạnh là Nhị hoàng tử đã lâu không lộ mặt.

Hoàng đế bèn cười:

– Lan Nhi đã khen thì thưởng. – Có lẽ vì có chuyện vui, tinh thần sảng khoái, hôm nay trông Hoàng đế có vẻ nhanh nhẹn hơn rất nhiều. Thái tử thấy ngữ khí của Hoàng đế tỏ rõ sự thương yêu với mình, gương mặt sáng lên, hoan hỉ.

Nhị hoàng tử cười nói:

– Đại ca vốn là người tao nhã lễ độ, không như đệ, chỉ thích những điệu múa phá trận.

Thái tử còn chưa đáp lời, Hoàng đế đã cười:

– Trẫm cũng rất thích những màn ca vũ mạnh mẽ, Đại Tư chúng ta lập quốc nhờ võ, Sung Nhi thích à, tốt lắm, rất giống trẫm. Nào, cùng trẫm uống một ly.

Nhị hoàng tử vui mừng, cầm ly đứng lên, lại gần quỳ lạy rồi uống cạn. Thái tử lạnh lùng ngồi nhìn, nụ cười như có như không.

Trong điện Minh Loan có bậc thềm cao chừng hai thước, chia điện thành hai tầng trên dưới. Lúc này, các hoàng thân, tam công cửu khanh đều ngồi ở tầng dưới, chỗ ngồi của Mộ Dung Trạm là ở cuối hàng. Bên dưới là bàn tròn mười người, Bộ Thiên Hành ngồi ở bàn đầu tiên.

Bữa tiệc trôi qua được quá nửa, bỗng nghe Hoàng đế cười nói với Triệu Sơ Túc:

– Nghe nói dưới trướng của khanh có một mãnh tướng là Bộ Thiên Hành, lần này chính người đó đã lấy trộm chiến xa của Thanh Luân?

Hoàng đế vừa nói, chúng nhân trong điện hết thảy đều ngừng đũa, yên lặng. Triệu Sơ Túc đáp:

– Đúng ạ.

Hoàng đế cười nói:

– Khá lắm! Tự cổ anh hùng xuất thiếu niên, Bộ khanh lại gần đây cho trẫm nhìn rõ.

Bộ Thiên Hành vui vẻ đứng lên, lại gần mấy bước, quỳ xuống dưới bậc, cúi đầu:

– Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế. – Mộ Dung Trạm ở rất gần chàng, nâng ly uống cạn, không nói một lời.

Hoàng đế lại tiếp:

– Bộ Thiên Hành, sau này khanh phải phò tá Triệu tướng quân, làm nên sự nghiệp to lớn của Đại Tư ta.

Bộ Thiên Hành vái dài:

– Vâng.

– Phụ hoàng, Bộ Thiên Hành là tướng tài hiếm có, người phải thưởng cho hắn. – Thái tử cười nói.

Hoàng đế gật đầu, ban thưởng, khiến chúng nhân trong điện đều vô cùng ngưỡng mộ. Bộ Thiên Hành cúi đầu tạ ơn, đang định lui ra thì Hoàng đế bỗng vẫy tay:

– Nghe nói Bộ tướng quân không rượu không vui, tốt lắm, thế mới là khí khái nam nhi. Trẫm thưởng cho người một ly mỹ tửu, lại đây. – Thái giám bên cạnh lập tức rót rượu, hai tay bưng lên.

Chúng nhân đều rúng động, nên biết được thiên tử đích thân ban rượu là ân điển to lớn, thân thiết nhường nào. Bộ Thiên Hành nghĩ, không biết uống rượu mà Hoàng đế uống có phải là đệ nhất thiên hạ không? Chàng bèn vui vẻ bước lên.

Đúng vào lúc này thì một bóng người đột ngột lao ra, tranh lên mấy bước, quỳ trước mặt Bộ Thiên Hành:

– Hoàng huynh! Thần đệ không muốn đi Thanh Luân, muốn ở lại Đế Kinh hầu hạ hoàng huynh, xin hoàng huynh thành toàn! – Đó chẳng phải là Mộ Dung Trạm với khuôn mặt anh tuấn đang đỏ bừng đó sao?

Hoàng đế hơi rũ mắt, nhìn sang thái giám bên cạnh. Thái giám vội vàng bước lên, đỡ Mộ Dung Trạm lên:

– Thành Vương, ngài say rồi.

– Ta… ta chưa say! – Mộ Dung Trạm đẩy tên thái giám ra, loạng choạng mấy bước, gương mặt đã đỏ như ráng chiều, thần sắc mơ màng, vô định.

Hoàng đế sa sầm:

– Còn ra thể thống gì nữa, lui xuống!

Thái tử cố giấu ý cười trong mắt, giả bộ đứng lên, nhưng lại không bước ra:

– Thập thất thúc, người mau lui xuống đi. Hôm nay là tiệc mừng, việc này để sau hãy nói.

Nhị hoàng tử cũng phụ họa:

– Tiểu Vương thúc, thúc có việc gì không vui thì để sau hãy bàn!

Mộ Dung Trạm lắc đầu, nhìn Hoàng đế chằm chằm:

– Hoàng huynh… đệ biết lỗi rồi, huynh… huynh đừng giận đệ…

Hoàng đế lạnh lùng nhìn chàng, quát:

– Còn không sai người lôi nó đi?

Triệu Sơ Túc lập tức đánh mắt ra hiệu cho Bộ Thiên Hành. Bộ Thiên Hành gật đầu, nhìn thân hình lảo đảo của Mộ Dung Trạm, bỗng thấy thương xót, lại gần ôm lấy thắt lưng Dung Trạm:

– Thành Vương, ngài say rồi.

– Ta chưa say… – Mộ Dung Trạm mơ màng quay đầu, vung tay chỉ Bộ Thiên Hành, – Ngươi là ai?

Bộ Thiên Hành bật cười, đang định nói thì đột ngột một luồng kình phong úp xuống, chàng hoàn toàn không đề phòng, bị Mộ Dung Trạm đấm thẳng một quyền vào mặt!

– Á… – Những người xung quanh hét lên kinh hãi, mũi Bộ Thiên Hành nóng bừng, đưa tay lên sờ, toàn là máu. Lúc này Mộ Dung Trạm đã ngoẹo đầu sang một bên, ngã vào lòng chàng bất tỉnh nhân sự.

Hoàng đế sa sầm mặt, ánh mắt u ám, một tay siết chặt long ỷ, một tay vỗ long án, lạnh lùng quát:

– Gỗ mục không thể đẽo! – Chúng nhân đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng quả nhiên Thành Vương đã thất sủng rồi.

Cuối cùng vẫn là Thái tử lên tiếng trước:

– Bộ Thiên Hành, ngươi dìu Thành Vương lui xuống trước đi, quay về thay bộ y phục mới, đừng làm bẩn mắt Thánh thượng. – Bộ Thiên Hành cũng biết trông mình giờ rất thê thảm, lại lo lắng cho Mộ Dung Trạm nên vội vã dìu Mộ Dung Trạm lui ra khỏi điện Minh Loan.

Canh ba.

Sau khi Bộ Thiên Hành đưa Mộ Dung Trạm về Vương phủ, không quay trở lại cung, cũng không về dịch quán. Chàng nhờ người nhắn tin cho Phá Nguyệt, còn mình xách một vò rượu, ngồi bên giường Mộ Dung Trạm, một mình uống.

Có lẽ vì nhìn thấy sự đắc ý của các chúng nhân tối nay, Hoàng đế, Thái tử, Nhị điện hạ là người một nhà hòa thuận, duy chỉ có Tiểu Dung buồn bã không vui. Thế nên chàng không muốn đi, không muốn khi Tiểu Dung tỉnh lại, chỉ có Thành vương phủ cô độc này làm bạn.

Rượu uống được một nửa thì Mộ Dung Trạm rên rỉ một tiếng, mở mắt ra, chống tay xuống giường ngồi dậy. Nhìn thấy Bộ Thiên Hành, chàng hơi kinh ngạc:

– Đại ca, sao huynh lại ở trong phủ đệ? – Chàng chống tay lên trán, hàng lông mày dài cau lại. – … Ưm, đệ nhớ… chẳng phải chúng ta đang ở trong cung dự yến sao?

Bộ Thiên Hành bật cười:

– Đệ uống say, ta đưa đệ quay về.

Mộ Dung Trạm ngơ ngác gật đầu, Bộ Thiên Hành đứng lên rót một tách trà nóng cho chàng. Mộ Dung Trạm ngẩn ngơ, đờ đẫn ngồi đó, không biết đang nghĩ gì.

– Trong lòng khó chịu lắm hả? – Bộ Thiên Hành hỏi.

Mộ Dung Trạm nhìn chàng, sắc mặt thoáng cứng đờ.

– Đại ca… đệ chỉ là, chỉ là… – Một lúc lâu sau chàng vẫn chẳng nói được nguyên do.

Bộ Thiên Hành bật cười:

– Cái tính đàn bà này của đệ phải sửa đi thôi! Ta biết trong lòng đệ khó chịu. Chỉ là chuyện đời không thể như ý ta, chỉ cần không thẹn với lòng. Đệ đã cầu xin cho tộc Thanh Luân, nay Hoàng thượng nổi giận cũng là hợp lẽ, mặc ngài ấy là được! Huống hồ, ta thấy Hoàng thượng không phải muốn đày đệ, rõ ràng là đối với đệ rất tốt. Con người đệ nhàn tản tiêu dao, ở lại Đế Kinh thực sự rất vô vị. Thanh Luân đất rộng, bách tính đôn hậu, đệ lại là người nhân từ, sau này chắc chắn sẽ yêu dân như con, tới Thanh Luân rồi sẽ có một khoảng trời mới mở ra, như cá gặp nước. Hơn nữa ta với Phá Nguyệt sẽ ở bên đệ, sau này ba người chúng ta chu du thiên hạ, chẳng phải sẽ càng vui vẻ hơn?

Mộ Dung Trạm cúi đầu, đỏ mặt tía tai:

– Đại ca, thực ra đi Thanh Luân cũng tốt. Đệ chỉ là… không nỡ xa hoàng huynh.

Bộ Thiên Hành bèn an ủi:

– Nếu trong lòng đệ thương nhớ Hoàng thượng thì sau này ta lén đưa đệ về Đế Kinh thăm ngài, thế nào?

Mộ Dung Trạm giật mình:

– Như thế… là vi phạm chỉ ý của hoàng huynh.

Bộ Thiên Hành cười:

– Mặc kệ! Chỉ nhìn một cái rồi thôi, biết ngài vẫn khỏe, đệ cũng an tâm hơn. – Rồi chàng lại cố ý thở dài. – Đệ đừng đau lòng nữa, ít ra đệ còn một huynh trưởng như cha. Đâu như ta, vừa sinh ra cha mẹ đã chết trong một trận đại dịch.

Chàng biết Mộ Dung Trạm mềm lòng, nói thế tất sẽ khiến chàng quay sang an ủi mình mà quên mất nỗi sầu khổ của bản thân. Quả nhiên, Mộ Dung Trạm thấp giọng:

– Đại ca, huynh đừng buồn. Đệ cũng là người thân của huynh, chúng ta như huynh đệ ruột.

Bộ Thiên Hành gật đầu, Mộ Dung Trạm lại hỏi tiếp:

– Năm xưa là đại dịch nào? Thế nào lại khiến đại ca phải thành cô nhi?

Bộ Thiên Hành bình thản đáp:

– Ta cũng không biết. Cha mẹ nuôi của ta chỉ là thôn dân bình thường, nói rằng cha mẹ ta vốn là một phú hộ trong trấn, vì nhiễm phải một dịch bệnh rất độc mà cả nhà chết hết, còn lại mỗi mình ta.

Mộ Dung Trạm ngước mắt nhìn chàng, chậm rãi hỏi tiếp:

– Có đúng là dịch bệnh không? Liệu có còn ẩn tình khác không?

Bộ Thiên Hành ngẩn người, cười nói:

– Ẩn tình? Đệ nghĩ nhiều quá, năm xưa ta cũng từng nghi ngờ, phải chăng khi đó có kẻ gian hãm hại cha mẹ ta? Nhưng hỏi những người già trong thôn, đúng là năm đó có xảy ra đại dịch, họ đã bệnh chết. Bằng không với tính cách của ta, nếu thực sự có kẻ thủ ác, mối thù giết cha giết mẹ không đội trời chung, chắc chắn ta sẽ phanh thây hắn, sao có thể để hắn sống trên đời này được?

Mộ Dung Trạm trầm mặc giây lát, gật đầu:

– Đại ca nói chí phải. Người đã chết, nay huynh đã thành gia lập thất, tiền đồ rộng mở, bá phụ bá mẫu trên trời có linh thiêng ắt sẽ tự hào vì huynh.

Đến khi trời sáng Bộ Thiên Hành mới rời khỏi Thành vương phủ. Hôm sau, thánh chỉ tới dịch quán, thăng chàng làm đại quan tam phẩm, ban cho vàng bạc, châu báu nhiều không kể xiết. Ban cho chàng một phủ tướng quân vô cùng rộng lớn ở phía Đông thành.

Ngay hôm đó Bộ Thiên Hành cùng Phá Nguyệt đến phủ đệ xem xét. Nơi này đã được xây tới hơn mười năm, nghe nói năm xưa cũng là phủ đệ của một vị tướng quân. Bộ Thiên Hành thấy trong phủ chỗ nào cũng được trang trí nhã nhặn, lại nghĩ ở dịch quán cũng thật bất tiện, thế là quả quyết chuyển vào đây ở luôn hôm nay. Các phó tướng tâm phúc và cao thủ võ lâm theo chàng hồi kinh tới hơn mười người, cũng được chàng đưa về phủ. Phủ tướng quân phút chốc trở nên vui tươi, náo nhiệt phi thường.

Phá Nguyệt thì đi mấy vòng thăm xét tỉ mỉ, quyết định trang trí thêm vài chỗ nữa, Bộ Thiên Hành không quan tâm tới chuyện này, phái mười mấy binh sĩ tới giúp đỡ nàng, để nàng thoải mái làm theo ý mình. Cứ như vậy chừng mười ngày trôi qua, trong phủ chỗ nào cần dỡ thì dỡ, chỗ nào cần sửa thì sửa, phủ đệ đã thay một diện mạo mới. Tấm biển “Bộ Phủ” chính thực được treo lên, Phá Nguyệt lại mua mấy nha hoàn, ma ma về hầu hạ, cuộc sống ở phủ tướng quân cũng ra dáng lắm rồi.

Chỉ là, ngày tháng yên ổn không thể kéo dài.

Mấy ngày sau, Mộ Dung Trạm tới phủ từ biệt, chàng sắp rời khỏi Đế Kinh vĩnh viễn, đi tới Thanh Luân. Bộ Thiên Hành cùng chàng đối ẩm tới khi trời sáng, rồi cùng Phá Nguyệt tiễn đội xe của chàng ra tận ba mươi dặm ngoài thành.

Lúc chia tay, Mộ Dung Trạm đã không còn vẻ ủ rũ khi trước, đôi mắt sáng ngời, nụ cười ấm áp:

– Hiện là khoảng thời gian để đại ca tạo dựng sự nghiệp, tiểu đệ tạm thời tha cho đại ca. Vài năm nữa, khi đệ đã ổn định rồi sẽ xin thánh chỉ của hoàng huynh, phái đại ca qua đó. – Bộ Thiên Hành cười lớn gật đầu, Phá Nguyệt cũng cười:

– Huynh ấy có nằm mơ cũng muốn được đi cùng huynh. Huynh mau xin ý chỉ đi.

Mộ Dung Trạm không nhịn được cười, leo người lên ngựa, không quay đầu lại, dần dần khuất dạng.

Ba ngày nữa trôi qua, Bộ Thiên Hành bị Triệu Sơ Túc gọi tới phủ.

Bộ Thiên Hành đã chuẩn bị sẵn tâm lý, mỉm cười nói:

-Tướng quân, chuẩn bị xuất quân tới Quân Hòa sao?

Triệu Sơ Túc vừa cầm mật chỉ trên bàn lên, nghe thế bật cười:

– Ngươi nhanh nhạy thật. Không sai, hôm ta nhập cung, nhận được thánh chỉ. Đọc đi.

Bộ Thiên Hành cung kính đón lấy đọc, đại ý là phái Phủ Quốc đại tướng quân Triệu Sơ Túc, Trấn Quốc đại tướng quân Tưởng Niệm Khoan thống lĩnh hai lộ binh mã, một tháng sau lên đường, lấy danh nghĩa quét sạch tàn đảng Thanh Luân, vượt qua sa mạc, ập tới tấn công Quân Hòa. Tên Bộ Thiên Hành nằm ngay đầu danh sách những người đi theo đoàn quân.

Tưởng Niệm Khoan là một lão tướng đã ngoài năm mươi, ngày trước thay thế Nhan Phác Tông trấn thủ Đông Nam, nổi danh với Triệu Sơ Túc. Lần này Hoàng đế không tiếc phái hai người cùng về phía Bắc, có thể thấy quyết tâm thống nhất thiên hạ của ngài.

Triệu Sơ Túc đứng lên, hàng lông mày toát lên ý chí ngút trời:

– Hàng tướng của Thanh Luân đã khai, đúng là Quân Hòa đã cung cấp sơ đồ làm chiến xa cho chúng. Quân Hòa làm loạn lòng dân Đại Tư chúng ta để thừa nước đục thả câu, hai bên đã ở vào thế không đội trời chung. Lần này ta tiến cử ngươi với Hoàng thượng, làm phó tướng cho ta, chúng ta chắc chắn phải toàn thắng trở về, không được phụ kỳ vọng của ta và Hoàng thượng.

Khi vầng trăng treo lơ lửng, Bộ Thiên Hành mới cùng Triệu Sơ Túc thương thảo xong sách lược hành quân, quay về phủ đệ. Phá Nguyệt đang ngồi trong sân hóng mát, thấy chàng vẻ mặt nghiêm trọng, biết là có chuyện khác thường bèn hỏi khẽ:

– Sắp khai chiến rồi ư?

Bộ Thiên Hành gật đầu.

Phu thê hai người ngồi trên chiếc ghế mây, không ai nói với ai câu nào.

Một lúc lâu sau, Bộ Thiên Hành thở dài, ủ rũ nói:

– Chuyện sinh con trai đành phải hoãn lại thôi.

Phá Nguyệt phì cười:

– Linh tinh! Đúng rồi, thiếp cũng phải đi chứ.

Bộ Thiên Hành gật đầu, hai người sớm đã quen đồng sinh đồng tử, giờ chỉ cần xa nhau một ngày đã cảm thấy nhung nhớ vô vàn. Phá Nguyệt thấy chàng đồng ý thì hài lòng tựa vào lòng chàng, không lâu sau đã ngủ thiếp đi.

Ánh trăng trong vắt, đêm hè mát mẻ. Bộ Thiên Hành ôm nàng, không chút buồn ngủ. Bởi vì chàng nhớ tới Thập Tam, quái thai trầm mặc mà trong sáng ấy, người huynh đệ giao tình sâu đậm ấy.

Ngàn vàng dễ có tri kỷ khó tìm, vậy mà tình riêng có nặng đến đâu cũng chẳng thể bằng thù nước nợ nhà, đế vương xã tắc. Có lẽ Thập Tam cũng hiểu, lần sau huynh đệ gặp nhau sẽ là lúc rút đao xông tới, không chết thì không dừng tay.

Rừng rậm cuối thu, ánh mặt trời buổi chiều ta phủ một màu vàng óng lên vạn vật. Đại quân màu đỏ khéo léo luồn lách trong rừng, tiến về phía trước, tiếng bước chân là âm thanh duy nhất phát ra từ hàng nghìn người.

Chính giữa quân đội có một chiếc xe lớn màu đen bốn ngựa kéo. Thân xe đều được làm bằng sắt tinh luyện, vó ngựa, bánh xe đều được bọc bởi loại da dày dặn, chắc chắn, đi trên địa hình đồi núi xóc nảy mà vẫn như đi trên đất bằng.

Trong xe rất rộng, một thanh niên mặt mũi nhợt nhạt dựa sau kỷ án, tay cầm sách, say sưa ngồi đọc. Mới tháng Mười mà trong xe đã đốt lò sưởi, hắn mặc một chiếc áo lông cáo rất dày, cả người bọc kín mít. Thi thoảng hắn lại ho khẽ, hai má thoáng ửng đỏ, hư nhược, yếu ớt. Duy chỉ có đôi mắt dài đen thẳm là toát lên vẻ rạng ngời, khiến hắn có thêm vài phần sức sống.

– Huynh nên đi ngủ đi. – Một thanh niên gầy gò vận y phục đen ôm kiếm ngồi một bên, thần sắc vẻ không kiên nhẫn lắm.

Hắn ngước lên mỉm cười:

– Thân thể này của ta chẳng biết còn kéo dài được mấy năm nữa. Ngày tháng ngắn ngủi, số sách này ta phải đọc cho xong. Đúng rồi, A Đồ, lần này vội vã chỉ huy quân về phương Nam, có chuyện này ta chưa kịp căn dặn đệ: Trận đánh kết thúc, kiểu gì đệ cũng phải cưới vợ thôi, Đường gia chúng ta phải có người nối dõi, phụ thân sẽ vui lắm.

Thanh niên vận y phục đen chính là Đường Đồ – Đường Thập Tam, cau mày:

– Huynh trước.

Người còn lại là đại ca của hắn, tiểu nguyên soái của Quân Hòa, Đường Khanh nghe thế cười khổ:

– Ta mà cưới vợ thì chẳng phải làm khổ cô nương nhà người ta cả đời ư?

Hai huynh đệ đều rơi vào im lặng, lúc này ngoài xe có người tới báo, rèm xe được vén lên, chính là Du kích tướng quân Đường Hy Văn.

– Nguyên soái, quân Đông Lộ và Trung Lộ của chúng ta đã giao chiến trực diện với quân Tư, phá được hai vạn quân tiên phong của địch. Chỉ có quân Tây Lộ thu hoạch rất nhỏ, Bộ Thiên Hành giữ vững thành trì, hai bên đều có thắng bại. – Đường Hy Văn bẩm báo.

Đường Khanh bỏ sách xuống, chẳng còn chút bệnh tật mệt mỏi nào nữa, trong đôi mắt lạnh tinh quang bắn ra bốn phía, hệt như thanh bảo kiếm sắc bén:

– Giữ vững phòng tuyến, không được để quân Tư tiến về phía Bắc một dặm.

Đường Hy Văn nhận lệnh lui ra. Đường Khanh cầm sách lên, một lúc lâu sau lại đặt xuống, bởi vì hắn phát hiện ra Đường Thập Tam đang ngồi thẫn thờ.

– Sao thế? – Đường Khanh cười khẽ. – Nhớ Bộ Thiên Hành?

Thập Tam gật đầu:

– Huynh sẽ giết hắn chứ?

Đường Khanh nhìn đệ đệ:

– Thế hắn có giết ta không?

Thập Tam không lên tiếng.

Đường Khanh chầm chậm đứng lên, đi tới trước một tấm bản đồ treo trên vách xe, chỉ vào phân bố binh lực bên trên, nói:

– A Đồ, hai tháng trước, binh lực của quân Tư chia làm ba lộ từ ngàn dặm tấn công, khiến ta trở tay không kịp, nay đã đánh tới bốn châu ở miền Nam nước ta rồi. Có điều, các châu ở miền Nam vốn là cố thổ của Đại Tư, là vùng đất hãm đà tấn công, binh lực mỏng yếu, chỉ chống trả trong một khoảng thời gian ngắn ắt không đáng ngại… – Tay hắn vạch ngang một đường trên bản đồ. – Đại quân của ta đã ở đây chờ đợi. Hơn nữa, giờ đã sắp sang đông, ta chiếm cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ban nãy những gì Đường Hy Văn báo cáo chẳng qua chỉ là lần thử nghiệm nhỏ đầu tiên của quân tiên phong, mà đã giết được hai vạn địch. Thế nên trận chiến lần này, Quân Hòa tất thắng, không có gì phải lo lắng cả. Thiên hạ này phải là của Quân Hòa.

Hắn lại ngồi xuống, ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn, trong mắt thấp thoáng ý cười:

– Ta chỉ có mình đệ là đệ đệ. Nếu đệ cầu xin cho Bộ Thiên Hành, ta có thể suy nghĩ, tha mạng cho hắn.

Thập Tam trầm mặc giây lát, gật đầu:

– Cầu xin huynh.

Một tháng sau.

Đêm thu lạnh giá, trăng tròn như ngọc. Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt cưỡi ngựa sóng vai nhau, năm nghìn quân ẩn mình trong rừng rậm, lặng lẽ tiến lên.

Ba ngày trước, Bộ Thiên Hành nhận được lệnh của Triệu tướng quân: Giao cho Bộ Thiên Hành thống lĩnh các bộ trực thuộc, tiến về phía Tây hội hợp với ông. Tối nay là năm nghìn binh lực cuối cùng mà Bộ Thiên Hành đích thân thống lĩnh rút về phía Tây.

Lúc trước, Triệu tướng quân đã cho Bộ Thiên Hành bốn vạn binh lực độc lập chỉ huy, chàng như cá gặp nước, thế như chẻ tre. Giờ hợp binh, có nghĩa là chàng đã mất quyền độc lập chỉ huy, Phá Nguyệt thấy thật đáng tiếc.

– Sao bây giờ lại đột nhiên hợp binh? Chẳng phải đang đánh rất tốt sao? – Phá Nguyệt hỏi.

Bộ Thiên Hành mỉm cười lắc đầu:

– Nương tử sai rồi. Lúc trước là chúng ta đánh lén, địch không kịp phòng bị nên mới liên tiếp hạ được thành trì. Nay Đường Khanh đã dẫn quân xuôi Nam, binh lực lại không hề yếu hơn chúng ta, đương nhiên là phải tập trung binh lực rồi mới có thể đối kháng.

– Ý của chàng là, sắp quyết chiến rồi? – Phá Nguyệt hơi căng thẳng.

Bộ Thiên Hành lắc đầu:

– Nên nói là giao chiến chính diện. Quyết chiến… e rằng còn sớm lắm.

Hai người đang nói chuyện thì bỗng có lính trinh sát tới cấp báo:

– Tướng quân, trong rừng năm mươi dặm phía trước phát hiện một cánh binh Quân Hòa. Có lẽ khoảng bốn nghìn người đang đi về phía này.

Bộ Thiên Hành ghìm cương ngựa lại:

– Là quân của lộ nào? Ai là đại tướng lĩnh quân?

Lính trinh sát lắc đầu:

– Không biết ạ, bọn họ không có cờ hiệu.

Bộ Thiên Hành xuống ngựa, Phá Nguyệt móc bản đồ trải ra mặt đất. Bộ Thiên Hành trầm tư giây lát, ngẩng đầu lên, khẽ cười:

– Miếng thịt dâng lên tận miệng không thể không ăn. Mười dặm phía trước có một sơn cốc, chúng ta mai phục tại đó. Đội thân binh, các ngươi đi lên đầu, trinh sát của đối phương chắc sắp tới rồi, giết hết cho ta, không được để lộ bất cứ tin tức gì.

Hơn chục thân binh nhận lệnh ra đi. Bọn họ đều là những nhân sĩ giang hồ đi theo Bộ Thiên Hành trong lần đánh bại Thanh Luân trước, người nào thân thủ cũng rất xuất sắc, được Bộ Thiên Hành thu nạp làm thân binh. Có họ đi trước, không sợ không tiêu diệt được trinh sát của đối phương.

Một canh giờ sau.

Phá Nguyệt ẩn sau một sườn núi tối tăm, bên cạnh là Bộ Thiên Hành. Nơi này tầm nhìn rất tốt, dưới ánh trăng trong trẻo, từ xa đã thấy lối vào của sơn cốc nhỏ hẹp. Một khi quân địch bước chân vào vòng mai phục, chắc chắn sẽ cửu tử nhất sinh.

Bộ Thiên Hành cho rằng mình nắm chắc phần thắng, thậm chí còn có phần lơi lỏng, ra hiệu cho Phá Nguyệt ra phía sau ngủ một giấc, ý là chờ nương tử tỉnh dậy, mọi việc đã được định đoạt xong. Phá Nguyệt bật cười nhưng không chịu.

Lại chờ thêm một tuần hương nữa, quả nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa, tiếng bước chân từ đằng xa lại gần, càng ngày càng dồn dập. Chúng binh sĩ nín thở ngưng thần, chỉ chờ bắt cua trong giỏ.

Bộ Thiên Hành và Phá Nguyệt đều cau mày nhìn nhau, bởi vì họ nghe thấy tiếng bước chân dừng ngoài cửa cốc.

Ngay sau đó, các binh sĩ khác cũng phát hiện ra. Điều này không có gì là lạ, có thể quân địch thận trọng, phái lính trinh sát vào cốc kiểm tra. Không ngờ đối phương trầm mặc giây lát rồi xông vào trong cốc, tiếng vó ngựa vang lên dồn dập tận trời xanh, không hề có vẻ gì là thận trọng, kín đáo.

Nhưng việc đáng ngạc nhiên hơn còn ở phía sau.

Người đó cưỡi ngựa đứng giữa sơn cốc, giọng sang sảng, ngữ khí vô cùng ngạo mạn:

– Dám hỏi vị tướng quân Đại Tư nào đang mai phục ở đây?

Lời vừa thốt ra, từ Bộ Thiên Hành trở xuống, ai nấy đều chấn động.

Lẳng lặng phát hiện ra có mai phục đã đành, quan trọng là phản ứng của chúng còn vô cùng huênh hoang, thẳng thắn, thực sự khiến người ta phải khâm phục.

Bộ Thiên Hành cũng giật mình đánh mắt ra hiệu cho phó tướng. Phó tướng hiểu ý đứng lên, nói to:

– Thực kém cỏi rồi, là Mục Thanh tướng quân mai phục tại đây. – Phá Nguyệt nghe thấy thế thì vừa tức vừa buồn cười, Bộ Thiên Hành khi giễu cợt người khác vẫn không quên trêu chọc chính nàng.

Phó tướng lại hỏi:

– Dám hỏi người tới là ai?

Người trong cốc đáp:

– Chúng ta là bộ hạ của Du kích tướng quân Đường Hy Văn. Mục tướng quân, tướng quân nhà ta hỏi, tối nay có đánh không?

Phó tướng nhìn Bộ Thiên Hành, Bộ Thiên Hành lắc đầu, phó tướng bèn cười mà đáp:

– Quý quân lặn lội đường xa, quân của ta ngồi không hưởng lợi, thắng không vinh quang. Tướng quân nói, để các người nghỉ ngơi chỉnh đốn lại một đêm, trời sáng thì đánh.

Đối phương nghe nói thế thì hình như rất mừng, đáp:

– Tốt quá. Đa tạ Mục tướng quân. Tướng quân nhà chúng ta nói, ngày mai nếu bắt sống được Mục tướng quân sẽ tha cho một con đường sống.

Bộ Thiên Hành bật cười ha hả, bình thản nói:

– Không cần đâu. Các ngươi không bắt nổi Mục tướng quân đâu.

Chàng vừa lên tiếng, trong sơn cốc im lìm không tiếng động.

Ban nãy người truyền lệnh của đối phương rõ ràng là một kẻ rất lớn tiếng, câu nào cũng phải căng họng ra nói mới khiến các phục binh trên đỉnh núi nghe thấy rõ ràng. Nhưng chỉ một câu nói rất bình thường của Bộ Thiên Hành mà như thì thầm bên tai hắn, khiến các binh lính Quân Hòa ở nơi xa nhất trong sơn cốc cũng nghe thấy rõ ràng. Nội lực thu phát tự nhiên ấy thực sự khiến người ta kính nể.

Đối phương trầm mặc giây lát, đột nhiên cung kính nói:

– Hóa ra là Bộ Thiên Hành tướng quân ở đây. Tướng quân nhà ta nói, ngài ấy từng là bại tướng dưới tay Bộ tướng quân, trận này không cần đánh nữa. Chúng ta lui binh mười dặm, nhường đường cho Bộ tướng quân. Cáo từ.

Lời vừa thốt ra, quân Tư đã ngẩn người. Bộ Thiên Hành trầm ngâm.

Khoảng nửa canh giờ sau, trinh sát về báo, quân địch đã cắm trại cách đó mười dặm. Phá Nguyệt buột miệng hỏi:

– Sao Đường Hy Văn lại sợ chàng như vậy?

Bộ Thiên Hành gật đầu, ánh mắt hướng ra xa, hình như muốn nhìn thấu qua màn đêm để nhìn vào tận quân địch thần bí phía xa:

– Mùng Chín tháng trước, hắn từng bại trận dưới tay ta. Người này ma mãnh lắm, quen dụng kế dụ binh, chắc chắn là muốn nhân lúc chúng ta rút về phía Tây để cho phục binh đánh lén.

– Tướng quân, giờ làm thế nào đây? – Phó tướng hỏi.

Bộ Thiên Hành cười nói:

– Sai người đi thăm dò, trên đường tới phía Tây có phục binh không.

Một khắc sau, trinh sát về báo, trên đường quả nhiên có dấu vết của phục binh. Bộ Thiên Hành mỉm cười:

– Bọn chúng phục kích thì chúng ta đánh lén. Bắt sống Đường Hy Văn cho ta, chắc chắn là hay lắm. Truyền lệnh xuống, canh ba động thủ.

Canh ba.

Phó tướng thống lĩnh năm trăm kỵ binh, động tĩnh rất lớn, ngang nhiên đi qua vòng mai phục của Quân Hòa như dạo phố. Bộ Thiên Hành đã căn dặn trước, phải đi chậm một chút, nếu thấy gì bất thường thì lập tức quay đầu, chắc chắn sẽ khiến phục binh của quân địch ngứa ngáy khó chịu.

Chàng và Phá Nguyệt đích thân thống lĩnh hai nghìn người, nhân đêm tối, đánh úp doanh trại của đối phương. Nhân số quá nhiều khiến tính cơ động thấp đi, cho nên để lại hai nghìn quân trong sơn cốc, linh hoạt điều động.

Tối hôm nay, Đường Khanh đã đặc biệt truyền lệnh, toàn quân nghiêm phòng Bộ Thiên Hành đánh lén. Nhưng hắn không ngờ vẫn bị đánh lén một cách triệt để.

Bởi vì tốc độ của Bộ Thiên Hành thực sự quá nhanh. Khi lính trinh sát Quân Hòa về báo có đoàn quân đáng nghi ở cách đó năm dặm thì chàng và Phá Nguyệt đã thống lĩnh quân tiên phong tiến vào tới cổng. Hay nói cách khác, biết rõ là chàng sẽ tới đánh lén mà vẫn không thể ngăn lại được.

Chỉ trong một canh giờ, đôi bên đánh nhau một trận rất hăng, cuối cùng sự tinh nhuệ của Bộ Thiên Hành đã chiếm thượng phong. Quân Hòa tổn thất hơn ba trăm người, lều bạt bị đốt quá nửa, tuy rằng Bộ Thiên Hành không bắt được Đường Hy Văn nhưng gần như thống lĩnh toàn quân an toàn rút lui, có thể nói là đại thắng.

Trời sáng, Đường Khanh ra khỏi xe ngựa, nhìn quân doanh hỗn loạn, cười khổ lắc đầu. Đường Thập Tam đứng cạnh hắn, lặng lẽ hỏi:

– Huynh, thua rồi?

Đường Khanh bật cười:

– Nói bậy!

Vậy mà khi Bộ Thiên Hành quay về sơn cốc cũng giật mình, toàn bộ sơn cốc như đã bị lửa thiêu, doanh trại tan hoang, than đen đầy mặt đất, tiếng rên la của các binh sĩ vang lên liên hồi.

Phó tướng dẫn năm trăm người lành lặn quay về:

– Tướng quân… chúng tôi không gặp phải phục kích nào.

Tình hình trước mắt đã quá rõ ràng, phục binh dọc đường chỉ là giả, ý đồ thực sự của đối phương là đánh lén sơn cốc. Nếu không phải chàng dẫn quân xuất kích thì e rằng thương vong còn lớn hơn. Sau đó thống kê sơ bộ, tổn thất mất hơn bốn trăm người. Tính ra, vẫn là đối phương thắng mình.

– Đường Hy Văn không có bản lĩnh này đâu, dám chơi trò đánh lén trước mắt bổn tướng quân à. – Bộ Thiên Hành quát lên với lính trinh sát. – Đi điều tra tiếp, rốt cuộc ai là người lĩnh binh của đối phương?

– Báo… – Lính truyền lệnh lao tới, – Có binh lính Quân Hòa gửi tới một phong thư.

Mở ra đọc, bút tích mạnh mẽ, trầm ổn, chỉ có bốn chữ: “Lễ qua lễ lại, sau ngọ lại đánh”.Bộ Thiên Hành không giận mà cười, truyền lệnh:

– Trả lời người Quân Hòa: Được! Truyền lệnh xuống, toàn quân nổi lửa nấu cơm, ăn cho no bụng, sau trưa lại đánh.

Phá Nguyệt nghi ngờ kéo áo chàng:

– Bọn chúng có nhân cơ hội đánh lén nữa không?

Bộ Thiên Hành cười nhạt:

– Hắn cũng đang đau đầu, cũng phải nghĩ cách khác, không đánh lén đâu, ăn cơm trước.

Phá Nguyệt nhủ thầm, hắn? Hắn là ai?

Mặt trời lơ lửng giữa trời, Bộ Thiên Hành bỏ bình rượu xuống, đứng lên từ sau triền núi.

Phá Nguyệt hỏi:

– Trận này chàng định đánh thế nào?

Bộ Thiên Hành chỉ nói một câu:

– Đường hẹp gặp nhau, kẻ mạnh thắng.

Chỉnh đốn lại binh mã, bốn nghìn sáu trăm binh sĩ nghiêm trận chờ đợi, Bộ Thiên Hành cưỡi lên ngựa, giây lát lính trinh sát về báo:

– Quân địch đã tới một dặm ngoài cửa cốc.

Bộ Thiên Hành gật đầu, cười khẽ với Phá Nguyệt:

– Phu quân trước nay đều lấy ít thắng nhiều, nay tác chiến giữa rừng, nhiều hơn quân địch một nghìn người, thật là không quen.

Phá Nguyệt lại bị chọc cười, có điều nghĩ lại, trong số hơn bốn nghìn người, các nhân sĩ giang hồ ngưỡng mộ đại danh tìm đến là hơn hai trăm người. Như Bộ Thiên Hành nói, đường hẹp gặp nhau, thực sự là bên mình chiếm ưu thế. Thế nên nàng cũng không lo lắng quá.

Tiếng trống trận nổi lên, quân Đại Tư xuất cốc.

Quân đội hai màu đen – đỏ, cách một khu rừng thưa, từ xa nhìn nhau. Hàng vạn người tập trung tại nơi đây nhưng chỉ có tiếng vó ngựa lác đác vang lên, khiến khung cảnh xung quanh càng trở nên cô tịch.

“Tùng, tùng, tùng…” Trống trận của Quân Hòa vang lên trước, địa quân màu đỏ như một con sư tử đang say ngủ đột ngột thức giấc, tiếng hô giết vang rền trời, ba quân tay cầm trường thương lao tới!

“Tùng, tùng, tùng…”, trống trận của Đại Tư cũng không chịu thua kém, Bộ Thiên Hành cau mày quát:

– Mạnh vào! – Một đại hán cao lớn giằng lấy cặp dùi từ tay tên lính, tiếng trống lập tức vang rền, gần như muốn chọc thủng màng nhĩ của binh lính.

– Giết! – Lính Đại Tư như một con sóng đen nuốt chửng tất cả, tiến về phía quân tiên phong màu đỏ.

Binh khí giao nhau, máu thịt giao nhau.

Đường Thập Tam vén một góc rèm xe lên, Đường Khanh ho khẽ hai tiếng, lặng lẽ nhìn ra ngoài. Lát sau, mắt hắn lộ vẻ kinh ngạc:

– Quân tinh nhuệ của Bộ Thiên Hành còn mạnh hơn cả quân của Đường gia?

Đường Thập Tam tuy rằng không hiểu binh pháp nhưng cũng nhận ra đầu cơn sóng màu đen đang từng bước tiến về phía này. Hắn đáp:

– Có người trong giang hồ, hắn thắng không vinh quang.

Đường Khanh mỉm cười:

– Hai quân giao chiến, có thể dùng bất cứ thủ đoạn nào, hắn chiêu nạp hiền tài, sao nói là thắng không vinh quang được?

– Rút không? – Thập Tam hỏi.

Đường Khanh chẳng nhìn hắn lấy một cái, chậm rãi nói:

– Đệ rất không muốn ta giao thủ với hắn?

Thập Tam im lặng.

Đường Khanh cười:

– A Đồ, đệ là đệ đệ ruột của ta. Nếu còn nghe thấy đệ thốt ra những lời khen ngợi đối phương, hạ thấp uy phong của Quân Hòa là ta sẽ giết Bộ Thiên Hành đấy. – Ngữ khí ôn hòa mà mạnh mẽ, Thập Tam ngẩn người, rũ mắt không nói.

Đường Khanh ho hai tiếng, lồng ngực nhói đau, chống vào vách xe thở hổn hển. Thập Tam lập tức đưa nước nóng cho hắn, Đường Khanh uống một ngụm, sắc mặt mới ổn định lại, mỉm cười nói với bên ngoài xe:

– Hy Văn, bảo đội Thần nỏ chuẩn bị. Hai trăm năm mươi bộ hãy bắn, tiêu diệt một chút uy phong của Bộ Thiên Hành.

– Vâng. – Ngoài xe, giọng nói của Đường Hy Văn thấp thoáng vẻ vui mừng.

Nhìn chiến tuyến được đẩy sâu vào lòng quân địch, Bộ Thiên Hành không hề tỏ ra đặc biệt vui mừng. Nên biết rằng cánh quân năm nghìn người này của chàng được coi là Thân Vệ Doanh, tinh nhuệ trong số các tinh nhuệ. Gặp phải một đội quân địch bình thường, có thể nói là lấy một địch mười, lấy một địch năm. Nhưng giao chiến chính diện với cánh quân này mà chỉ chiếm được một chút thượng phong.

– Truyền lệnh… – Chàng trầm giọng. – Kỵ binh chuẩn bị, khi còn cách một trăm năm mươi bộ thì đổi bộ binh. – Chàng căn dặn như thế là vô cùng thận trọng. Cung tên bình thường có thể bắn được trăm bộ, năm xưa chiến xa của Triệu Phách có thể bắn xa một trăm năm mươi bộ. Nơi này là vùng núi, hai quân giao phong chính diện, chiến xa to lớn khó có thể che giấu. Thêm vào đó, cho dù đối phương có vũ khí tương tự thì khi được một trăm năm mươi bộ, thay bằng kỵ binh có tốc độ lớn hơn cũng đủ để đánh chúng trở tay không kịp.

Nhưng Bộ Thiên Hành không ngờ được rằng, các tinh nhuệ của chàng đã không tới nổi một trăm năm mươi bộ trước trận tiền.

Trong phạm vi bắn từ một trăm năm mươi bộ tới ba trăm bộ, quân Quân Hòa hình như rất ăn ý, đột ngột như sóng thủy triều tách ra làm đôi. Binh lính Đại Tư đều ngẩn ra, rồi cơn mưa tiễn như châu chấu từ trên trời ập xuống.

Cung nỏ. Cung nỏ chưa từng nghe tới, mũi tên nào cũng như truy hồn đoạt mệnh, xuyên đầu, xuyên ngực lính Đại Tư. Chỉ trong chớp mắt, đội quân tiên phong dũng mãnh nhất đã như những tổ ong, đổ nhào xuống đất.

Vậy mà cơn mưa tên vẫn không dừng lại, tựa như kẻ bắn tên không cần phải nghỉ ngơi hay lắp tên, vừa nhanh vừa dày đặc. Binh sĩ Tư đã bị loạn trận thế, ngã càng nhanh hơn, hàng thứ hai, hàng thứ ba… hầu như giây phút nào cũng có hàng chục người đổ xuống, khí thế hung mãnh, không gì chặn được.

– Khốn kiếp! – Bộ Thiên Hành nhảy vọt lên hai, ba trượng, cúi nhìn trong không trung mới thấy rõ, tiền phương của quân địch có khoảng hơn năm mươi đại hán cao lớn, trên vai vác một cái nỏ cao bằng một nửa người, liên tục bắn ra những mũi tên ngắn màu bạc vô cùng sắc nhọn!

Bộ Thiên Hành giật mình, nghĩ chết rồi: Tướng lĩnh quân địch thật giảo hoạt, hôm qua còn giấu vũ khí bí mật là để hôm nay cho mình một trận không kịp trở tay.

Phá Nguyệt bên cạnh chàng cũng bay vọt lên, nhìn thấy rõ ràng, quát khẽ:

– Nỏ liên hoàn? Lại chơi trò này sao? A Bộ, chúng ta cướp nó về!

Bộ Thiên Hành nghe thấy nàng là một nữ tử mà không hề tỏ vẻ sợ hãi, bất giác hào khí dâng trào, đã nghĩ ra kế sách. Chàng không làm như Phá Nguyệt nói, mạo hiểm đi cướp nỏ liên hoàn về, mà hiểu rõ rằng, quyết không thể mặc cho đối phương tiếp tục đồ sát mình như thế này.

Có điều Bộ Thiên Hành không biết, điều Phá Nguyệt sợ nhất là đối phương lại lấy ra một loại vũ khí hiện đại như kiểu súng lục, thế nên nhìn thấy chỉ là nỏ liên hoàn, nàng thở phào nhẹ nhõm. Những ngày qua, nàng cũng đã tìm thợ mộc trong quân đội chế tạo súng lục, nhưng nàng vốn là một người bình thường, chỉ hiểu biết sơ sài về máy móc, nhiều lần thử nghiệm, cũng nhiều lần thất bại, chưa thấy tia hy vọng nào.

– Đội thân binh, theo ta đánh qua đó! Nguyệt Nhi ở lại. – Chàng quát to một tiếng. Hơn mười thân binh thân thủ tốt nhất sau lưng sớm đã ngứa ngáy tay chân, rút binh khí ra, bay vọt lên khỏi mình ngựa, theo chàng đánh vào trong trận. Nhan Phá Nguyệt thấy hơi không cam lòng, nhưng biết mình chỉ khiến chàng phân tâm nên đành đứng yên chỗ cũ, định khi nào chàng gặp nguy hiểm thì sẽ tương cứu.

Tuy chỉ có chưa đến mười lăm người, nhưng có Bộ Thiên Hành thống lĩnh, sức sát thương của đội quân nhỏ này thậm chí còn hơn cả trăm người. Các cao thủ thi triển khinh công, giẫm thẳng lên đầu các binh sĩ Đại Tư, như mãnh hổ lao vào trận tuyến của địch.

Địch nhân nhanh chóng phát hiện ra các nhân vật lợi hại này, giơ cao thần công bắn lên trời! Đao quang của Bộ Thiên Hành như tuyết bay ngập trời, còn chặt chẽ hơn cả làn mưa tên! “Keng, keng, keng”, tiếng binh khí va nhau, sống đao của chàng làm mũi tên bị bắn trở lại! Địa thế trong rừng vốn hẹp, trong chớp mắt, đã có rất nhiều binh sĩ Quân Hòa bị trúng tên, ngã xuống đất, thậm chí còn cả hai đại hán cầm thần nỏ! Các thân binh còn lại tuy không thể bắn ngược tên như chàng, nhưng muốn bảo vệ bản thân không bị thương là việc dễ như trở bàn tay.

Chỉ trong chớp mắt mà tình thế trên chiến trường đã có sự thay đổi. Đường Hy Văn chỉ huy đội Thần nỏ bỗng thấy khó khăn, thần nỏ tuy rằng lợi hại, nhưng vừa to vừa nặng, năm mươi đại hán này đều là được lựa chọn từ các bộ trong quân đội, người nào cũng giá trị ngàn vàng, nay chưa gì đã tổn thất mất hai người, gã vô cùng xót ruột.

Bộ Thiên Hành cùng người của mình theo cánh quân vừa đánh vừa lui, cho dù là thế thì quân Đại Tư vẫn bị truy kích chết mất hơn ba trăm người, thêm vào số người bị chết do tên bắn lúc trước, thương vong đã lên tới hơn năm trăm. Cho tới khi quân Tư lui vào cửa cốc, Đường Hy Văn mới xin chỉ thị của Đường Khanh, lúc ấy Đường Khanh cười nhạt:

– Không cần đuổi nữa. Giữ ở cửa cốc.

Cửa cốc rộng chưa đầy hai trượng, tối hôm đó, Đường Khanh hạ lệnh cho hai trăm bộ binh cầm cung tên đứng canh giữ, không dùng tới đội Thần nỏ, rồi đi ngủ. Canh ba, tiếng hô chém giết ở cửa cốc vang lên, thân binh gõ vào vách xe:

– Nguyên soái, quân Tư đang đột phá vòng vây!

Thập Tam vốn đang ôm kiếm nằm trên sàn xe, nghe nói vậy lập tức ngồi thẳng. Đường Khanh nằm trong xe thậm chí còn không đứng lên, chỉ ho khẽ hai tiếng, hỏi:

– Có phải là hỏa công không?

Thân binh há miệng, kinh ngạc đáp:

– Vâng ạ. Thế lửa rất mạnh, Đường tướng quân đang thống lĩnh chiến đấu!

Đường Khanh “ừm” khẽ một tiếng:

– Nói với Hy Văn, làm bộ vậy thôi, thả họ đi.

Thân binh nghe hoặc nhận lệnh ra đi, Thập Tam nhìn rèm xe buông thấp, không lên tiếng. Giọng của Đường Khanh lại vang lên:

– Đệ đừng mừng. Bộ Thiên Hành vẫn còn quay lại, người ta muốn bắt là hắn, chỉ không muốn binh sĩ của mình chết oan thôi.

Thập Tam trầm mặc giây lát, hỏi:

– Vì sao?

Đường Khanh đáp:

– Có thần nỏ làm mồi câu, không sợ hắn không tới. Đêm mai hắn sẽ đánh lén.

Canh hai ngày hôm sau.

Thập Tam hầu như không ngủ, ôm kiếm ngồi trên càng xe. Xe của Đường Khanh nằm chính giữa, loáng thoáng có thể nghe thấy tiếng bước chân rối loạn, tiếng chửi mắng và tiếng đánh nhau ngay rìa phía trước.

Khoảng nửa canh giờ sau, Đường Hy Văn đích thân tới báo:

– Nguyên soái liệu sự như thần, quả nhiên Bộ Thiên Hành đưa người tới, trúng mai phục của đội Trường thương, bị ép lui rồi. Chúng ta bị thương hơn mười người. Chỉ tiếc là không bắt được hắn.

Giọng của Đường Khanh trong đêm nghe khàn khàn:

– Xác định là hắn đích thân tới chứ?

Đường Hy Văn gật đầu:

– Tôi nhận ra đao của hắn.

Đường Khanh cười khẽ:

– Nếu hắn tới thì đâu dễ dàng để ngươi bắt được? Đội Trường thương có thể cho giải tán rồi, thay bằng đội Cung tiễn. Chưa đầy nửa canh giờ nữa, hắn sẽ lại tới.

Đường Hy Văn “A” một tiếng rồi lại gật đầu:

– Đúng, tên Bộ Thiên Hành đó rất khó chơi. – Rồi nhận lệnh bỏ đi. Thập Tam đi vào xe, rót ly nước nóng cho Đường Khanh, rồi lại nắm lấy mạch môn ở hai tay hắn, dùng chân khí tương trợ. Lát sau, hơi thở của Đường Khanh đã điều hòa hơn nhiều, nói:

– Vất vả cho đệ quá.

Thập Tam lắc đầu, nói:

– Chóng mặt.

Đường Khanh biết ý của hắn là không vất vả, chỉ là nghe chuyện quân sự thấy chóng mặt nên mỉm cười.

Lúc này, năm dặm phía Tây của đại doanh Đường Khanh, Bộ Thiên Hành đứng lên giữa khu rừng rậm rạp, nói với năm mươi cao thủ:

– Lại vào quân doanh!

Có người ngạc nhiên nói:

– Tướng quân, vừa nãy chúng ta có thừa sức, vì sao không tiếp tục tấn công vào trong?

Bộ Thiên Hành không đáp, mà chỉ lẩm bẩm:

– Hắn có thể đoán được tối nay ta còn vào tiếp không?

– Chuyện này mà cũng đoán được ư? – Chúng nhân kinh ngạc.

Bộ Thiên Hành cười:

– Vừa nãy chỉ có hai mươi người đi, lần này đi hết. Cho dù có đoán được thì cũng khiến hắn không chặn lại được.

Chúng nhân ngơ ngác gật đầu.

Bộ Thiên Hành lại nhìn Phá Nguyệt.

– Nguyệt Nhi, theo sát ta, phải cẩn thận.

Canh ba.

Trong quân doanh một lần nữa vọng tới âm thanh khác thường, các thân binh hốt hoảng chạy tới báo:

– Nguyên soái, quân Tư đã xông qua đội Cung tiễn, đội Trường đao, đang áp sát lại gần đội Thần nỏ!

Đường Thập Tam ngẩng phắt đầu lên, Đường Khanh cũng bất ngờ, ngồi dậy vén rèm xe lên, nhìn ra xa, chỉ thấy phía trước là ánh lửa mơ hồ khó phân biệt. Hắn quát:

– Nói với Đường Hy Văn, cho dù không ngăn được Bộ Thiên Hành thì những kẻ khác cũng phải ngăn lại bằng được cho ta! Cho một mình Bộ Thiên Hành vào đội Thần nỏ!

Vậy mà lúc này, Đường Khanh là một nam tướng, lại quên mất Bộ Thiên Hành vẫn còn một trợ thủ tốt, Nhan Phá Nguyệt. Hoặc vì hắn là thiên tài quân sự, không có khái niệm chính xác về võ học, không biết thân thủ của Nhan Phá Nguyệt hoàn toàn có thể sáng ngang với Bộ Thiên Hành. Mà các binh lính khi chấp hành mệnh lệnh cũng để xảy ra một sai lầm nho nhỏ, người được thả vào đội Thần Nỏ ngoài Bộ Thiên Hành ra còn có Nhan Phá Nguyệt, mà họ không chặn lại được.

Khi Bộ Thiên Hành cầm đao xông vào đội Thần nỏ, trước mặt chàng là khoảng hai mươi đại hán, tay cầm nỏ, giận dữ nhìn mình. Đôi bên nhìn nhau, màn mưa tên như châu chấu ập xuống. Bộ Thiên Hành cười khẩy trong lòng, bay vọt lên khỏi mặt đất, nhảy rất cao, tránh hết những mũi tên! Quân địch cũng phản ứng rất nhanh nhạy, chia thành ba hàng, từ các góc độ khác nhau, bắn lên trên trời!

Nhưng họ có nhanh đến đâu thì cũng không nhanh bằng Bộ Thiên Hành! Chàng lật người, đã rơi xuống sau lưng họ, tay vươn ra, túm lấy gáy một đại hán, bàn tay cầm đao lướt qua, hắn rú lên rồi ngã xuống, nỏ liên hoàn đã bị chàng đoạt lấy.

Bộ Thiên Hành đã đắc thủ, lòng mừng thầm, càng thêm cảnh giác. Chàng không giao đấu tiếp, thi triển khinh công bay ra ngoài. Phá Nguyệt đã chờ đợi sẵn ở một nơi cách đó vài bộ, chàng ném nỏ liên hoàn cho Phá Nguyệt, Phá Nguyệt đón lấy rồi chạy, chớp mắt đã không còn bóng dáng. Chàng quay người chạy sang một hướng khác, định tương trợ các cao thủ đang chống cự ngoài vòng vây, cùng thoát thân.

Không ngờ vừa chạy được mấy bước, chân bỗng bước hụt, lao nhanh xuống một hố sâu hai, ba trượng, lập tức hiểu ra mình vừa rơi xuống bẫy. Chàng ngỡ ngàng, âm thầm cảm thấy, chẳng nhẽ đối phương cố ý để mình cướp được liên hoàn nỏ? Ban nãy nếu không phải có Phá Nguyệt tiếp ứng thì cả mình lẫn nỏ đều không chạy nổi!

Nghĩ tới đây, chàng thấy an tâm hơn, nghĩ bụng hắn chắc chắn không ngờ tới vẫn còn có Phá Nguyệt, thần nỏ vẫn bị lấy trộm mất.

Chỉ là chàng còn chưa kịp đề khí bay lên thì một tấm lưới đã ụp xuống, không thể cựa quậy nổi.

Chàng múa đao chém lưới, vậy mà vừa từ lưới thoát ra đã nghe thấy bên trên có kẻ hét:

– Bắt được rồi. – Một binh sĩ tay cầm nỏ, ngắm chuẩn vào chàng. – Không được động đậy! Nếu không ta sẽ bắn chết ngươi!

Bộ Thiên Hành cứng người, đầu óc xoay chuyển rất nhanh, nghĩ kế thoát thân, bỗng thấy người binh sĩ đó run bật lên, hình như bị thứ gì đó đập mạnh, cắm đầu vào trong hố. Bộ Thiên Hành đâu có bỏ qua cơ hội này, lập tức phi thân bay lên, đáp xuống mặt đất. Một người vận đồ đen gầy gò che mặt đứng trước mặt, đôi mắt sáng lạnh như trăng.

– Đi! – Người đó quát khẽ một tiếng, quay người chạy về phía Đông. Bộ Thiên Hành thấy sau lưng hắn có hàng chục binh sĩ cầm nỏ đuổi theo, biết ý của hắn là muốn giúp mình thoát thân, bèn hú dài một tiếng, ra hiệu cho mọi người liên hoàn nỏ đã lấy được, mau mau rút lui, rồi lập tức đề khí đuổi theo.

Người đó có vẻ vô cùng quen thuộc với địa hình trong quân doanh, chạy không nghỉ suốt một tuần hương, hai người đã ra khỏi đại doanh từ một góc có quân lính thưa thớt. Lại chạy thêm một khắc nữa, tới cánh rừng rậm ngoài rìa doanh trại, sau lưng không còn tiếng truy kích, người đó mới đột nhiên đứng lại, ôm quyền với Bộ Thiên Hành rồi quay đầu bỏ đi. Bộ Thiên Hành túm lấy tay áo hắn:

– Thập Tam, ngươi…

Hắn tránh khỏi bàn tay của Bộ Thiên Hành, lặng lẽ hòa mình vào màn đêm.