“Vậy là vợ cậu đã tự sát ư?” Tôi thấp giọng hỏi, nhưng viên concierge lại cười khúc khích đầy khinh miệt.

“Ai mà biết được.”

“Cậu nói vậy là có ý gì?”

“Con tàu sẽ không bao giờ ngừng chạy và sau khi nó đi qua thì sẽ chẳng còn gì sót lại nữa cà. Hay nói cách khác, tôi là người duy nhất nhìn thấy cô ấy nhảy xuống. Nhưng mà ai sẽ tin tôi đây? Thế là vợ tôi biến mất, và kể từ đó ngôi nhà trở nên thật trống rỗng. Đó là lý do tại sao tôi đã rất ngạc nhiên khi anh nói về vợ tôi. Chuyện này không lý nào lại là sự thật được.”

Nói xong viên concierge lại im lặng. Cái ý nghĩ không biết liệu hắn có đang nói dối hay không cứ bủa vây lấy tâm trí khiến tôi điên tiết.

“Cậu sống một mình trong căn nhà đó sao?”

“Ai mà sống nổi trong căn nhà đó chứ?”

“Nhưng không phải cậu đã đến đó hồi chiều nay sao?”

“Tôi chỉ muốn kiểm tra thôi. Tôi có cảm giác rằng có thể, chỉ là có thể thôi, là vợ tôi đã trở lại.”

“... Cậu đã nhìn lên lầu hai chưa?”

Viên concierge lắc đầu sợ hãi. “Tất cả cánh cửa chớp trong căn phòng đó đều đã được đóng kín. Chẳng có gì ngoài sự tối tăm trống rỗng cả. Chỉ cần nghĩ đến chiếc bàn giấy kê trong góc ấy thôi cũng đủ khiến tôi rùng mình. Tôi thậm chí còn nghe thấy tiếng cười khúc khích của vợ lần nữa. Làm gì có ai đủ can đảm để mà leo lên những bậc thang đó sau khi trải qua những chuyện kinh khủng như vậy chứ,” hắn cáu kỉnh nói, rồi lại làm thinh.

Chuyện quái gì đang diễn ra thế này? Sao hắn phải gấp gáp kể lể với tôi vậy nhỉ? Thực khách đã vơi bớt, và bầu không khí im lặng trong nhà hàng cũng "vì thế mà thêm phần nặng nề". Nó lúc này làm tôi liên tưởng tới việc bị nhốt trong căn phòng tối om trên tầng hai của căn nhà nọ.

“Tại sao cậu lại kể với tôi tất cả những chuyện này?”

“Ai biết.”

“Tôi không quan tâm đến chuyện của gia đình cậu.”

“Vậy mà anh lại lắng nghe rất cẩn thận,” hắn ta đáp trả. “Anh đang đổ rất nhiều mồ hôi đấy.”

Tôi nhận ra mình cũng chẳng hơn gì hắn ta, người ngợm đầm đìa mồ hôi.

Viên concierge lau miệng bằng một chiếc khăn tay bẩn thỉu và nhìn thẳng vào tôi. “Thưa quý khách,” hắn ta nói. “Anh có biết vợ tôi đang ở đâu không?”

Từ tận đáy lòng mình, khi nhìn mặt viên concierge, tôi không khỏi ghê tởm người đàn ông đáng sợ này. Tôi bắt đầu nghĩ rằng hắn là nguồn cơn của mọi sự, và từng lời lẽ thốt ra từ miệng hắn đều là rác rưởi.

“Tôi biết chính xác vợ cậu đang ở đâu.”

Viên concierge chột dạ trước câu trả lời của tôi. “Ở đâu cơ?”

“Cậu biết rõ cái chốn chết tiệt đó mà. Trên tầng hai của căn nhà đó ấy.”

“Không thể nào. Làm gì có ai ở trên đó chứ.”

“Cậu nói phải, không còn ai sống ở đó nữa.”

“Thế thì…”

“Vợ cậu chết rồi. Cậu đã giết cô ấy.”

“Anh đang nói gì vậy?”

“Ý cậu là tôi nói sai sao?”

“Vậy thì ai mới là người nhảy ra trước đầu tàu?”

“Cậu cũng biết rõ đáp án mà.”

Không thể tìm thấy câu trả lời, viên concierge thở khò khè, trợn mắt. Sắc mặt hắn trở nên trắng bệch, và sẽ chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu hắn ta ngất đi ngay lúc đó.

Một hồi sau hắn ta đứng dậy rồi lảo đảo rời khỏi nhà hàng.

Tôi nhớ lại cái đêm mà mình cùng vợ đi bắt chuyến tàu.

“Cảm giác như bình minh sẽ chẳng bao giờ đến vậy.”

Vợ tôi vừa dứt câu thì đoàn tàu đã chạy qua ga Onomichi. Khung cảnh xung quanh bỗng chốc bừng sáng lên, và bên ngoài khung cửa sổ, những bến ga vắng vẻ vội vàng lướt qua, tắm mình dưới ánh đèn huỳnh quang.

“Anh đã bao giờ đến Onomichi chưa?” vợ tôi hỏi vậy khi đọc được tấm biển mang tên nhà ga mà đoàn tàu vừa đi qua.

“Chưa, anh chưa từng đến đây bao giờ cả,” Vì một vài lý do nên tôi đã nói dối.

Sau khi đi qua ga Onomichi, hiện lên là một thị trấn cổ với những cửa hàng và nhà ở trải dài sang một bên của tuyến Sanyo, xây gần như ngay sát đường ray. Tôi trông thấy những bậc thang bằng đá dẫn lên cổng đền, với những con hẻm xen kẽ giữa các căn nhà. Trong nháy mắt, con dốc đã biến mất song cảnh tượng đó vẫn còn hằn sâu trong tâm trí tôi, cứ như đó là một đường hầm huyền bí dẫn đến một vùng đất xa lạ nào vậy.

Chúng tôi ngắm nhìn thị trấn Onomichi bên ngoài cửa sổ, nhưng khi chuyến tàu đi qua chân dốc dài dẫn lên Senkōji, tôi thấy một người phụ nữ đứng cạnh chiếc đèn tín hiệu ở ngã tư. Khoảnh khắc đó chỉ kéo dài trong giây lát, nhưng tôi có cảm giác rằng cô ấy đã vẫy tay với mình.

Một hình ảnh lóe lên trong tâm trí tôi, là về một con dốc tắm mình dưới cái nắng của tháng Tám. Tôi hồi ức lại một mùa hè thời sinh viên cao học khi bản thân đã dừng chân ở Onomichi để gặp Hasegawa.

Sau khi nhìn ngó xung quanh Senkōji, chúng tôi leo xuống dốc. Con đường quanh co kéo dài qua những khu phố cũ, ánh nắng chói lòa phản chiếu khiến mắt tôi như muốn mù cả ra. Bầu trời trên biển Seto Inland mang một sắc thiên thanh đến chóng mặt, và cái nóng thì cứ như trong phòng xông hơi vậy. Khuôn mặt nhợt nhạt của Hasegawa cùng đôi vai cô đung đưa dưới bóng râm của chiếc ô, tạo nên một khung cảnh tuyệt diệu như ở chốn thiên tiên.

Khi xuống dốc, chúng tôi nói về những gì mà mình dự định sẽ làm sau khi trở lại Kyoto và bàn tán về

những người bạn cùng lớp. Hasegawa nói với tôi rằng cô ấy muốn trở về sớm nhất có thể để học bài.

“Cũng đúng ha. Kỳ thi đại học sẽ diễn ra vào tháng Chín mà nhỉ?”

“Khi về lại Kyoto thì mình không thể làm biếng được nữa rồi.”

“Nghe không giống cậu chút nào.”

“Thật á?”

“Cậu lúc nào chả đứng đầu trong mọi lĩnh vực.”

“Mình không thích mọi người nói như vậy về bản thân đâu. Thực ra thì mình đâu có đứng đầu trong mọi lĩnh vực. Chỉ là mình giữ bí mật về vụ đó thôi.”

“Tại sao chứ?”

“Nếu là mình thì lúc nào cũng làm vậy hết á.”

“Vậy là cậu cố gắng che đậy hết những điều đó sao?”

“Phải. Vì vậy mà hôm nay, khi mình đến muộn ấy… Đúng là không thể tin vào bản thân mình được mà.”

“Tớ nghĩ việc phô bày đôi chút về một khía cạnh khác của cậu cũng không phải là điều gì tồi tệ đâu,” tôi cố nói bằng giọng vô tư lự. “Nếu cậu muốn nói chuyện thì tớ sẽ luôn sẵn lòng lắng nghe mà.”

“Mình cũng không biết nữa. Giờ còn biết bao nhiêu việc phải làm.” Khi đi xuống dốc nửa chừng, cô ấy đột ngột dừng lại, ngắm nhìn thị trấn trải dài dọc theo bờ biển hướng về Mukaishima, nơi mà cô đã vượt biển để tới đây. Nhưng có cảm giác như cô thực sự không ngắm nhìn cảnh biển, mà thay vào đó là một thứ gì khác. Tôi cứ đứng như trời trồng ở đấy, chẳng biết phải phản ứng thế nào, cho đến khi môi cô ấy cong lên, tạo thành một nụ cười.

“Nhưng dù sao thì cậu cũng chỉ quan tâm với những vấn đề mà bản thân có thể giải quyết được thôi mà,” cô bình luận, rồi bắt đầu đi xuống dốc.

Chắc là cô ấy chỉ đột nhiên nói ra những lời đó khi chúng thoáng qua tâm trí cô thôi; Âu là chẳng có ý nghĩa sâu xa nào đằng sau những câu nói ấy đâu. Suy cho cùng, cô cũng chỉ là một sinh viên đại học 20 tuổi mà tôi mới quen được 6 tháng. Nhưng ngay lúc đó, tôi cảm thấy như cô ấy đã nhìn thấu tôi, và tôi bất chợt dừng lại.

“Có lẽ khía cạnh kia của tớ cũng giống vậy đấy.” Đó là tất cả những gì tôi có thể thừa nhận. Rồi tôi đi xuống con dốc, theo sau cô ấy.

Tôi nghĩ mình đã luôn mập mờ nhận thức được bộ mặt khác của bản thân, nhưng lại sợ ai đó chỉ ra nó. Cảm giác như Hasegawa đã nói với tôi rằng, Cậu là kiểu người đầu tiên sẽ chạy trốn ngay khi gặp rắc rối, kiểu người sẽ thu mình lại khi mà bản thân được cần đến nhất.

Tôi bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng ở toa tàu, để rồi thấy vợ tôi đang lặng lẽ úp mặt vào cửa sổ toa. Biểu cảm cô trông lạnh lùng huyền bí, cảm giác như đứng trước mặt tôi là một người xa lạ nào đó vậy. Cô ấy không hề đáp lại khi tôi gọi, chỉ đến khi tôi tới và lắc vai, cô mới nhận thức được mình đang ở đâu.

“Hả?”

“Em ổn chứ? Em cứ như người say rượu ấy.”

“Gì cơ? Thật sao?”

“Ừ, phải đấy.”

Nhưng cô ấy vẫn tiếp tục nhìn chăm chú ra cửa sổ với vẻ bối rối. Ánh đèn đường mờ nhạt hắt lên khuôn mặt cô, rồi biến mất.

Con tàu chạy băng băng xuyên qua tấm màn đêm đen thẳm.

Tôi nhìn ra cửa sổ một lần nữa. Người phụ nữ đứng ở ngã tư dưới chân dốc là ai? Dù chỉ là thoáng qua, nhưng cô ta làm tôi liên tưởng tới Hasegawa. Nhưng điều đó là bất khả thi. Hasegawa đã mất tích tại Kurama từ 5 năm trước rồi kia mà.

Vợ tôi đột nhiên cắt ngang suy nghĩ của tôi. “Anh không nhìn thấy thứ gì đáng sợ ngoài kia sao?”

“Đáng sợ ư?”

“Một người phụ nữ,” vợ tôi nói. “Cô ta đã đứng ở ngã tư ấy. Anh không nhìn thấy sao?

“...Không, anh không thấy gì cả,” Tôi lắc đầu trả lời. “Cô ấy có gì đáng sợ à?”

Vợ tôi suy nghĩ một lúc rồi mới đáp lại.

“...Cứ như em đang nhìn vào chính bản thân mình vậy.”

Tôi nhanh chóng trả tiền và rời khỏi quán sushi.

Khu mua sắm vẫn còn mở cửa, bóng dáng viên concierge kia thì chẳng thấy đâu.

Tôi chạy vào con hẻm hướng tới những tòa nhà và bước ra một con phố. Phía bên kia đường là tuyến Sanyō, đối diện bậc thang đá dẫn đến cửa đền, và từ chỗ đó xuyên qua những ngôi nhà trên đồi.

Tôi cần anh giúp đỡ. Những câu từ của cô ấy vang vọng bên tai tôi.

Tôi không còn quan tâm tới việc tại sao vợ tôi đã thay đổi, hay việc đó có liên quan gì tới viên concierge nữa. Điều quan trọng nhất là người vợ yêu quý đang cần đến sự giúp đỡ của tôi. Và tôi cần phải cứu cô ấy ra khỏi tầng hai của căn nhà đó, sau đó đưa cô ấy rời khỏi Onomichi càng sớm càng tốt. Đáng lẽ tôi phải tới nơi này sớm hơn mới phải. Phải chi tôi đã không buông tay cô ấy.

Tôi không phải là kiểu người sẽ chạy trốn khỏi rắc rối, tôi nghĩ bản thân là người như vậy. Nhưng hóa ra không phải.

Tôi nhanh chóng băng xuyên qua ngôi đền vắng vẻ.

Cảm giác như khu phố trên sườn đồi hoàn toàn khác so với hồi sáng nay. Những bậc thang đá lamplit và ngã tư được chiếu sáng bằng ánh đèn trông chẳng khác gì đoạn hành lang ảm đạm ở thủy cung. Duy chỉ có tiếng bước chân của tôi vang vọng trong sự tĩnh mịch.

Khi tới gần căn nhà trên đồi, tôi bắt đầu phát hiện những tàn tích ở đó. Không hề khó để phân biệt chúng, bởi chúng nằm trong những khoảng trống nơi ánh sáng chẳng thể chiếu tới. Những tấm ga giường màu xanh che khuất bức tường đổ nát, và những mái ngói cũ kĩ thì chất đống trước cửa. Càng có nhiều ngôi nhà như vầy, thì con đường lại càng tối đi.

Sau khi đi bộ một lúc, tôi quay lại nhìn và thấy bờ biển tối đen trải dài ngay dưới mắt. Trong khoảnh khắc đó, tôi đã biết về màn đêm mà mình chưa từng thấy. Cảm giác như bình minh sẽ chẳng bao giờ đến nữa vậy.

Khi tôi đi đến con đường dẫn tới ngôi nhà trên đồi, một bóng đen như mực nhảy ra từ đống đổ nát. Đó là viên concierge.

“Anh đang đi đâu vậy?”

“Tôi đang tới căn nhà.”

“Làm ơn đừng mà. Không có ai ở đó đâu.”

“Tôi tới đón vợ tôi.”

Tôi vừa dứt câu thì hắn ta lao tới.

Điều tiếp theo mà tôi biết là tôi đã bị ghim chặt xuống mặt đường. Tên concierge đang cưỡi lên người tôi, còn tay hắn thì bóp chặt cổ tôi. Khuôn mặt bực bội của hắn cách tôi chỉ vài inch, và những giọt mồ hôi của hắn rơi xuống trán tôi. Nhưng tôi chẳng thấy sợ hãi gì cả. Những gì tôi cảm thấy không phải là sợ hãi, mà thay vào đó là tức giận. Một thịnh nộ mà từ trước đến giờ tôi chưa từng hay biết, cơn thịnh nộ từ sâu thẳm trong thâm tâm tôi bùng cháy, nó thay đổi toàn bộ con người tôi.

Tôi vươn tay phải ra và cảm nhận được một mảnh gạch vỡ khá nặng. Quấn ngón tay xung quanh mảnh vỡ, tôi nện mạnh vào thái dương tên concierge. Tôi nghe thấy một tiếng rên. Tôi đập hắn thêm phát nữa, hai phát, rồi ba phát, cho đến khi tiếng rên dừng hẳn. Hắn lảo đảo. Tôi đẩy cái cơ thể bất tỉnh của hắn sang một bên và hít một hơi thật sâu.

Sau một lúc thì cuối cùng tôi cũng đứng dậy được.

Tên concierge nằm cuộn tròn bên đường, mắt nhắm nghiền. Nét mặt trông khổ sở lắm, tưởng chừng như hắn sẽ khóc òa lên. Để cho chắc chắn, tôi đập đầu hắn thêm phát nữa. Đáp lại tôi là một âm thanh như tiếng thở dài, rồi nhanh chóng tan biến vào màn đêm.

Tôi ném viên gạch sang một bên, nhìn xuống bàn tay đẫm máu của mình.

Tôi đi bộ tới ngôi nhà trên đồi.

Những ngọn đèn trong dãy nhà bên trái ven đường đã bị dập tắt, và ở bên phải là một khu rừng tối om. Một chiếc đèn lồng lấp lánh ở giữa con đường, nhưng phía sau nó chỉ là một đường hầm không ánh sáng.

Trong bóng tối, tôi nhìn lấy bàn tay mình, ẩm ướt và dính đầy máu.

Cái thứ đó lại vừa thoáng qua tâm trí tôi lần nữa: cái cảm giác khi đập đầu hắn ta, và tiếng thở dài cuối cùng của hắn. Thật chẳng khác nào tiếng thở dài của chính tôi. Vào lúc đó, tôi cuối cùng cũng có thể chắc chắn rằng – sự thay đổi của vợ tôi cũng là sự thay đổi của riêng bản thân tôi.

Tôi nhìn lên phía đầu đường và thấy bóng dáng của một người phụ nữ trong chiếc váy mùa hè xuất hiện giữa bóng tối. Dưới ánh đèn, cô ấy đang vẫy tay phải, mỉm cười với tôi. Đó là vợ tôi. Cô ấy đã đợi tôi.

“Anh đến để đón em đây. Nào, chúng ta cùng về nhà thôi.”

Cô ấy bắt đầu đi bộ xuống dốc, sóng vai với tôi.

Đúng vậy, tôi nhận ra rằng chúng tôi đang đi về phía căn nhà đó.

“Em ở tầng 2 phải không nhỉ?”

“Vâng, em đã ở đó suốt thời gian qua. Ở đó tối lắm, như một căn phòng khóa vậy.”

“Em không cần phải lo nữa đâu. Anh đã chăm sóc hắn rồi.”

“Đáng đời hắn chưa!” Cô cười khúc khích rồi ngẩng đầu nhìn lên. “Ồ, kia kìa, em có thể nghe thấy được nó đó.”

“Nghe thấy gì cơ?”

“Con tàu ấy, đang chạy kia kìa. Anh có thể thấy nó từ tầng 2 đó.”

Tôi nghe thấy tiếng lạch cạch phát ra từ phía ngã tư ở chân núi—

Con tàu đêm đang đi qua.

Tại sao tôi phải lo lắng về việc đưa vợ mình trở về chứ? Thật là ngốc mà. Tôi đã chẳng hiểu gì cả. Nhưng ít ra thì tôi đã không chạy trốn. Khi những suy nghĩ đó lướt qua tâm trí, một nỗi buồn man mác dâng lên trong lòng tôi khiến tôi đứng lại.

Vợ tôi quay lại nhìn. “Có chuyện gì vậy? Anh không thể đi được nữa sao?”

“Anh vừa cảm thấy buồn ấy mà.”

“Chỉ một chút nữa thôi, cố lên nào!”

“Ừ, em nói đúng. Cùng về nhà thôi.”

Tôi đưa bàn tay đẫm máu ra và vợ tôi nắm lấy. Khi cô ấy làm thế, tất cả nỗi phiền muộn trong tôi tan biến. Màn đêm bao trùm chúng tôi như một tấm chăn ngọt ngào và quen thuộc biết bao. Siết chặt bàn tay vợ mình, và lần này tôi chắc chắn sẽ không buông tay ra nữa đâu.

Tay trong tay, chúng tôi trở về nhà, trở về ngôi nhà tọa lạc trên đồi.