Tiếng mưa và tiếng đập cánh của lũ quái vật nối nhau không dứt. Xen vào đó, tiếng vó ngựa dồn dập bao quanh Don Ricardo, bùn bắn tung tóe lên các bức tường của ngôi nhà.

“Quân Pars….”

Don Ricardo thì thào. Tiếng vó ngựa vang lên từ nhiều hướng.

“Sao lại đúng lúc này cơ chứ?”

Dường như quân Pars đang thực hiện một chiến dịch quy mô lớn không rõ lý do. Đương nhiên Don Ricardo không biết rõ nguồn cơn, chỉ có một sự thật không thể chối cãi vào lúc này là bọn quái vật đã hoảng sợ khi quân Pars xuất hiện.

“Ta nên cảm thấy mình may mắn hay xui xẻo đây.”

Don Ricardo cả người ướt sũng nước mưa và bùn, nấp vào tường để tránh kỵ binh. Đột nhiên, chân anh ta đạp phải một vật cứng. Đó là một cây cung dính bùn, có lẽ của những người lính canh trong trấn đã hy sinh và bỏ lại. Don Ricardo nhặt cung lên, thấy vẫn còn năm sáu mũi tên trong bao đựng. Anh ta ngẩng đầu, xác định hình dạng con quái vật đang bay.

Là một hiệp sĩ, Don Ricardo đương nhiên phải học cách sử dụng cung tên. Số địch từng bị anh bắn hạ trên chiến trường cũng rất ấn tượng. Nhưng anh thường tự nhận xét về bản thân rằng “Vẫn còn một bước nữa mới thành danh.”

Và bước đi này khá dài.

Don Ricardo bắn ra ba mũi tên liên tiếp. Mũi đầu tiên sượt qua chân con quỷ có cánh, bay vào màn mưa. Mũi thứ hai gọn gàng đâm vào thân thể con quái vật, khiến nó rơi xuống. Mũi thứ ba trúng vào vai nhưng không gây sát thương lớn. Con quỷ bị thương loạng choạng bỏ chạy.

“Cung tên của Pars khó dùng thật.”

Anh ta đổi lỗi cho cây cung, chuẩn bị giương mũi thứ tư thì một đường bạc bay qua đỉnh đầu Don Ricardo. Trận mưa tên trút xuống trên cao nhưng bị đường màu bạc này ngăn lại. Một tiếng hét dữ dội vang lên sau tấm màn mưa, rồi tiếng những vật nặng rơi xuống bùn, phát ra âm thanh lộp bộp.

Don Ricardo huýt sáo. Khả năng huýt sáo của anh ta cũng dở tệ như giọng hát, nhưng anh vẫn muốn dùng cách này bày tỏ lòng ngưỡng mộ với vị cao thủ đã biểu diễn một màn xạ tiễn đỉnh cao trong điều kiện khắc nghiệt thế này.

“Tuyệt vời. Hiệp sĩ Don Ricardo khen ngợi anh, nên anh hãy lấy làm tự hào.”

Sau tiếng huýt sáo, anh ta hét lên bằng tiếng Lusitania. Tiếng mưa hòa cùng tiếng bước chân, và một người dừng bên cạnh. Đó chính là bậc thầy cung tiễn vừa hoàn tất màn trình diễn đẳng cấp của mình.

“Nghe giống tiếng Lusitania nhỉ?”

Thanh niên người Pars ấy cất giọng trầm tĩnh nhưng đầy nguy hiểm. Don Ricardo cảm thấy nổi da gà. Giọng nói của kẻ này cho thấy anh ta sẵn sàng ra đòn chí mạng, kết liễu kẻ thù với thái độ điềm nhiên như không.

Don Ricardo lặng lẽ buông cung tên, rút thanh kiếm trong vỏ. Chàng trai trẻ người Pars lạnh lùng hỏi.

“Người Lusitania làm gì ở đây?”

Ta mới phải hỏi các người chứ, nhưng tiếc là Don Ricardo không có tư cách thốt ra câu này. Hơn nữa, tinh thần anh ta bây giờ cực kỳ phấn chấn. Hiệp sĩ của Lusitania thạo đấu kiếm hơn bắn cung.

Gầm lên một tiếng, Don Ricardo vung kiếm về phía đối thủ. Nhưng ngay sau đó, chiêu kiếm anh ta bất ngờ bị đánh văng bởi một nhát chém dữ dội không thể nào hình dung được. Ngay khi hai lưỡi kiếm chạm nhau, tia lửa rơi như mưa. Anh ta chỉ kéo dài được chừng 10 lần so chiêu.

“Người này mạnh quá.”

Don Ricardo rùng mình. Kỹ thuật hai bên tương đương nhau nhưng sức lực cánh tay đối phương mạnh hơn Don Ricardo một chút, còn anh ta lại có lợi thế là bước chân nhanh nhẹn hơn. Dù dưới làn mưa, chuyển động của anh ta không hề chậm lại.

Hơn một lần, lưỡi kiếm của đối phương xé rách quần áo của Don Ricardo. Thanh kiếm của Don Ricardo cũng gây sức ép về phía cổ họng và vai đối thủ nhưng không gây được sát thương nào.

Mưa giảm dần, khiến hai người họ bắt đầu nhìn rõ diện mạo của nhau. Chàng trai người Pars có gương mặt trẻ, sắc sảo nhưng cau có một cách lạ lùng. Chắc chắn nếu cười lên, anh ta cũng thu hút rất nhiều cô gái. Nhìn thấy Don Ricardo, anh ta tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Mái tóc của ngươi….”

Câu nói bị chen ngang bởi tiếng rú của con quỷ vượn có cánh đang tiếp cận từ phía sau.

Máu phun ra khi con quỷ bị chẻ đôi từ sau lưng. Phần thân trên bay vọt đi theo đường kiếm, thân dưới vẫn còn bước loạng choạng vài bước nữa rồi mới ngã. Nước bùn đặc sệt bắn tóe lên, máu hòa và trong đó.

“Merlain, cậu đang làm gì vậy?”

Một giọng nói mạnh mẽ, trầm ổn vang lên, cùng tiếng chân ai đó vừa nhảy khỏi ngựa, đáp xuống bùn.

“Không phải quái vật, là con người. Anh đánh nhau với một ông cụ râu tóc bạc trắng thế này à? Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Anh ta không phải ông cụ đâu. Ít nhất nhìn động tác thì không giống thế.”

“Ồ.”

Bóng đen bao phủ Don Ricardo, đúng nghĩa là một màu đen tuyền. Trong làn mưa xanh xám, dáng người chiến binh cao lớn trong bộ giáp đen khiến người ta vô thức nảy sinh cảm giác tin cậy, tựa như một gốc cây cổ thụ khổng lồ. Thanh kiếm trong tay anh ta được nước mưa rửa sạch, tỏa ánh sáng bạc mờ mờ.

“…….Không thể nào đánh thắng anh ta.”

Don Ricardo thẳng thắn nghĩ. Dù anh không muốn thua cuộc nhưng người xưa có câu “núi cao có núi cao hơn”. Trong trường hợp xấu nhất, anh buộc phải dùng mạng mình đổi lấy một cánh tay của kẻ địch.

Don Ricardo nắm chặt thanh kiếm và tiến lên. Lúc này, lưỡi gươm trong tay đối phương phát ra tiếng xé gió.

Một nhát chém kinh hồn, dường như ngay cả những hạt mưa đang rơi cũng bị cắt đứt. Tua sáng chiếu ngang cơ thể Don Ricardo.

Mùi tia lửa và thép cháy còn phảng phất. Hai cổ tay Don Ricardo tê rần vì đỡ đòn này. Tiếng lưỡi gươm rung lên còn on gong trong màng nhĩ. Đó mới chỉ là chiêu đầu tiên của vị kỵ sĩ áo đen.

Don Ricardo đỡ được nó nhưng bị đẩy lui tới ba bước. Ngay sau khi hai đường kiếm chạm nhau, bước thứ nhất, anh ta bị hất mạnh về phía sau, bước thứ hai lảo đảo dồn về trước, bước thư ba đã không thể duy trì thăng bằng. Đầu gối anh ta rơi xuống bùn, lưng cong xuống.

“Không! Đừng giết anh ta! Xin đừng giết anh ta!”

Parisa hét lên. Dưới làn mưa, cô chen vào giữa Don Ricardo và kỵ sĩ áo đen. Don Ricardo muốn ngăn cô lại nhưng không thốt ra được tiếng nào.

Đột nhiên, sức mạnh áp đảo kia biến mất. Chiến binh Pars thu gươm, lùi lại một bước.

Don Ricardo gục xuống bùn. Anh cố gắng để không vùi mặt xuống nhưng nửa bên trái đã chìm xuống, hoàn toàn ướt đẫm.

“Anh ấy có chuyện quan trọng cần gặp nhà vua, hiện đang trên đường đến kinh đô hoàng gia. Không thể giết anh ta được. Xin hãy giúp chúng tôi!”

Nghe giọng Parisa, Don Ricardo cố gắng gượng dậy. Anh nghĩ dù có bị giết thì ít ra cũng phải chết khi đang đứng.

“Ta có cảm giác đã trông thấy mái tóc bạc này ở đâu rồi….”

Chiến binh Pars bình tĩnh hỏi.

“Người Lusitania kia, anh tên gì?”

“Ở Pars, người ta gọi tôi là Parafuda – Ma trắng.”

Nghe câu trả lời bất đắc dĩ này, đối phương gật đầu. Thanh kiếm lần nữa rời vỏ, nhưng không phải để giết người, mà là để bảo vệ họ khỏi lũ quái vật.

“Ta hiểu rồi. Ta nhớ người Lusitania đó.”

“Ngài là….”

“Ta là Dariun, phụng sự vua Arslan.”

Kỵ sĩ mặc chiến giáp đen nhìn Don Ricardo, khẽ lắc đầu.

“Quả là một cuộc hội ngộ kỳ lạ. Trước tiên hãy tìm một căn nhà đã. Ta còn việc phải làm. Sau khi giải quyết xong, ta sẽ nghe anh nói.”

Dariun quay lại và đi về phía cơn mưa đang nhẹ hạt dần. Chàng trai trẻ người Pars ban nãy đấu với Don Ricardo gọi với theo.

“Ngài Dariun.”

“Ồ, Merlane, để anh đợi lâu rồi.”

Kỵ sĩ áo đen Dariun trả lời người đồng nghiệp trẻ tuổi. Hóa ra anh chàng từng đấu áp đảo Don Ricardo kia chính là Merlane, quyền thủ lĩnh tộc Zot.

“Ngài đến một mình à?”

“Không, Jaswant cũng ở đây.”

“Nhưng một marzban như ngài đâu nhất thiết phải đến tận nơi.”

“Ta ở kinh đô mãi đến rã rời xương cốt rồi. Trước khi vị eran nào đó kịp phàn nàn, ta đã xin bệ hạ cho phép trốn đi.”

Dariun cười lớn. Thật sảng khoái làm sao khi nghĩ đến Kishward đang nổi giận ở trong cung. Merlan không biết hai tháng trước, ở kinh đô Ecbatana, Kishward và Dariun đãng dành nhau quyền chỉ huy cuộc khám phá ngôi đền trong lòng đất.

“Vậy Merlan là người tiên phong à?”

“Đúng vậy.”

“Anh dẫn theo bao nhiêu quân lính?”

“Khoảng 600 kỵ binh.”

“Chúng ta đóng quân bao nhiêu ngày?”

“Tôi không biết đại quân của ngài Kubard đã tới.”

Nói rồi, tựa hồ nhận ra mình trả lời không đầy đủ, Merlane lại thêm.

“Tuy nhiên, chắc sẽ mất 10 đến 15 ngày. Cần chuẩn bị thêm chỗ ở.”

Trong khi hai vị tướng Pars trò chuyện thì Parisa đưa Don Ricardo về quán trọ. Sau khi đun nước sôi, Don Ricardo tắm rửa, giặt sạch quần áo, chuẩn bị đón khách đến thăm.

-------------------

Nếu xuất phát từ phía đông kinh đô Ecbatana và cưỡi ngựa hết tốc lực, người ta có thể đến Solymania trong vòng 8 ngày. Từ phía tây Peshawar, nếu phi nước đại thì mất chừng 7 ngày. Đó là nơi hoàn hảo để các sứ thần gặp gỡ nhau.

Lúc này, sứ giả từ Ecbatana là Dariun và Jaswant, còn sứ giả từ Peshawar là Merlan. Ba vị tướng đã gặp mặt và bàn bạc chi tiết.

Đó là một sự kiện quan trọng.

Họ không chỉ gửi thư tín bằng văn bản mà còn trao đổi nội dung với nhau. Làm như thế, ngay cả khi lạc mất tài liệu, nhiệm vụ vẫn có thể hoàn thành.

Jaswant báo cáo tình hình cho Dariun.

“Đã diệt sạch lũ quỷ, chỉ còn lại xác.”

“Chúng từ đâu tới và trốn đi đâu nhỉ? Loại hành vi lén lút như ruồi muỗi này thật sự khó chịu.”

Merlane bực dọc nói.

“Nghĩ lại thì thế mới đúng là hành vi của bọn chúng.”

Dariun nhận định.

“Nếu phá hủy thành Solymania và chặn đứng Đại lục vương lộ, việc liên lạc giữa kinh đô Ecbatana và Peshawar sẽ trở nên khó khăn. Huy động quân đội cũng gặp nhiều vấn đề.”

“Quán guy hiểm. Nhưng như ngài nói thì phải chăng bè lũ của Xà vương Zahhak đang chiếm thế thượng phong?”

“Cậu chẳng vui tính gì cả.”

Dariun cười chua chát.

Một lúc sau, ba vị tướng của Pars lại lên đường. Theo chỉ thị của quân sư Narsus, bọn họ sẽ tiến hành bước tiếp theo. Đường phố bị hư hại do mưa lớn cần phải sửa lại, an táng thi hài các nạn nhân, xử lý xác lxu quái vật, chăm sóc người bị thương, thống kê thiệt hại về tiền của và gia súc, đảm bảo chỗ nghỉ ngơi cho binh lính, phân phối lương thực và trinh sát trong thành, tìm kiếm căn cứ của bọn quỷ….Có vô số việc phải làm.

Sau khi gấp rút chỉ đạo, Dariun vỗ tay.

“Được rồi, làm thế này thì tên họa sĩ cung đình hay dài dòng đó sẽ không phàn nàn được gì nữa.”

“Ngay cả tôi cũng cảm thấy ngỡ ngàng. 4 năm trước, tôi vậy mà lại định đối đầu với anh ta.”

Anh chàng Jaswant người Sindhura bỗng thở dài.

“Không phải là anh tự mãn, anh chỉ trung thành với chúa thượng của mình. Nói đến tự mãn thì phải là ta đây này.”

“Ngài Dariun ư? Sao ngài lại nói thế?”

“Hơn 10 năm rồi đấy. Ta làm bạn với tên họa sĩ nham hiểm kia hơn 10 năm, vậy mà giờ ta vẫn bình an đứng vững ở đây. Chẳng phải rất tự mãn hay sao?”

Jawant không biết phải trả lời thế nào. Chắc Dariun cũng nhận thấy mình nói ra một câu đùa dỏ tệ nên tư tung tự hứng với trò đùa của mình luôn.

“Đến lúc các vị thần xứ Pars nên thưởng cho sự kiên nhẫn và bao dung của ta rồi. Họ sẽ cho ta lên thiên đường sau khi chết. Ta không muốn xuống địa ngục cùng với tên Narsus đó đâu.”

Jaswant lại nghĩ quá nhiều chỉ vì một câu đùa.

“Vậy Arslan bệ hạ sẽ buồn lắm. Vì bệ hạ nhất định sẽ lên thiên đường.”

Merlan im lặng suốt nãy giờ chỉ mỉm cười, tiếp tục không nói câu nào.

“Thế thì dù cho có ác độc, ta cũng đá tên đó xuống địa ngục và leo lên thiên đường. Không được theo Arslan bệ hạ nữa thì ta chết có ích gì đâu.”

Jaswant rất muốn kể một chuyện cười nào khác để đổi đề tài nhưng anh quá nghiêm túc nên đành bỏ cuộc.

“Đúng đấy ngài Dariun, không nên lôi cái chết ra để đùa đâu. Người Sindhura coi chuyện đó là điềm gở.”

“Không chỉ ở Sindhura thôi đâu.”

Dariun đưa tay xoa mặt.

“Được rồi, tạm thời hoàn thành chỉ dẫn của ngài họa sĩ cung đình, còn anh chàng Parafuda người Lusitania kia thì sao nhỉ?”

Bấy giờ, Merlane mới lên tiếng.

“Đúng, anh ta đáng lẽ phải quay về Lusitania từ 4 năm trước rồi chứ, tại sao lại ở Pars lúc này?”

“Hình như anh ta có tình nhân ở Pars.”

Dairun nở nụ cười trêu chọc, còn Jaswamt nghiêm túc ngẫm nghĩ.

“Trước tiên cứ nghe xem anh ta nói gì, biết đâu lại có tin tức mới.”

Vậy là ba vị tướng tìm đến quán trọ nơi 4 người đến từ tu viện Đỏ đang tạm trú.

“Sao anh ở đây?”

Đương nhiên Dariun sẽ hỏi thế, và Gassem đã chuẩn bị sẵn câu trả lời. Sau khi Gassem kể sơ qua những gì đã xảy ra ở Tu viện Đỏ, ba vị tướng liền biến sắc.

“Sao anh không nói sớm hơn?”

“Đúng, nhưng tôi thật sự không có cơ hội nào mà báo cáo…”

“Thôi bỏ đi, trước hết cứ gặp những người bạn đồng hành của chúng ta đã.”

Gassem gọi Parisa và nhờ cô dẫn họ đến phòng của Estelle.

Estelle ngồi trên giường, chiếc áo khoác hờ trên vai, cúi chào các vị chiến binh Pars. Ba người nín thở nhìn Estelle trong giây lát, rồi mới trang trọng chào cô.

“Cô hiệp sĩ tập sự của Lusitaia, à không, ta nghe nói cô đã được chính thức phong tước hiệp sĩ. Không ngờ được gặp lại cô ở nơi như thế này.”

“Xin lỗi đã đón tiếp anh trong bộ dạng này.”

Giọng nói tuy trang trọng nhưng yếu ớt vẫn tràn đầy sự tự tôn. Danh hiệu nữ hiệp sĩ không chỉ dành cho Estella mà còn chứng minh cho thân phận của cô.

“Cô còn nhớ chúng tôi không?”

Nghe câu hỏi lịch sự của Jaswant, Estelle mỉm cười gật đầu, nhìn sang Merlane.

“Đây không phải cung thủ giỏi thứ 2 ở Pars sao? Lần đầu chúng ta gặp nhau là ở cung điện.”

Merlane đã từng đồng hành với Estelle một thời gian.

Thời điểm đó, quân Lusitania chiếm đóng kinh đô Ecbatana. Vì nhiều lý do, công chúa Irina của Maryam đã đâm trọng thương vua Innocentius đệ thất của Lusitania. Merlane và Estelle nhân lúc hỗn loạn để trốn khỏi cung điện, cùng tiến về phía nam để gặp Arslan cùng các thuộc hạ. Sau đó, Arslan tiến quân về hướng bắc từ cảng Gilan để phát động cuộc chiến giành lại kinh đô Ecbatana. Bản thân Merlane thì đoàn tụ cùng em gái Alfarid sau khi cha họ qua đời.

Anh ta không thể nói “Cô vẫn như xưa” khi thấy Estelle được nên chỉ đành im lặng gật đầu, sau đó lập tức quay đi. Chàng thanh niên này nhìn có vẻ cáu bẳn, thực chất thì anh ta đang vô cùng bối rối.

Đồng thời, anh cũng ngửi thấy mùi hương Estelle sử dụng. Ngoài cướp bóc, tộc Zot còn thu thập và buôn bán dược liệu nên Merlane lập tức hiểu ra cô dùng thuốc đó để làm gì.

“Cô tới tìm

Arslan bệ hạ à?”

Cuối cùng, Merlane cũng mở miệng, nặng nề hỏi. Estelle nhìn Merlane chằm chằm với đôi mắt mơ màng vì sốt, khẽ mấp máy môi.

Merlane thì thầm với hai người đồng sự.

“Nên đưa họ đến gặp nhau càng sớm càng tốt.”

Mọi người lập tức hiểu ý. Cả Dariun và Jaswant đều không có lý do gì để phản đối đề nghị của Merlane. Họ chứng kiến vô số cái chết trong các trận chiến, bao gồm những người hy sinh vì thương tật sau chiến tranh. Estelle trông giống hệt như một trường hợp điển của điều đó.

--------------------------

Sau một đêm, đã đến ngày 1 tháng 8 lịch Pars. Cơn mưa xối xả cuối cùng cũng tạnh. Nắng hè ló dạng sau những đám mây đang tách dần ra, rọi xuống mặt đất những tia sáng thiêu đốt như một món quà sau thời gian dài vắng bóng. Bầu không khí ẩm ướt và lạnh lẽo mau chóng trở nên khô ráo, ấm áp.

“Đi thôi đi thôi. Đừng lãng phí một ngày nào.”

Dù Gassem là người ồn ào nhưng anh ta luôn biết rõ mình cần làm gì. Ngya khi mưa tạnh, anh đã sẵn sàng lên đường, miễn là Estelle cảm thấy đủ khỏe để xuất phát.

Gassem rất bận tâm đến số tiền lộ phí trong thời gian họ ở đó nhưng may sao Dariun và Jaswant đã thanh toán tất cả bằng những đồng vàng. Gassem hết lời ca ngợi sự hào phóng của nhà vua.

Merlane cùng 600 kỵ sĩ ở lại thành Solymania rồi giao quyền chỉ huy cho Farrakhor. Farrakhor cảm thấy yên tâm hơn khi có thêm quân tiếp viện.

Dariun nói với Parsisa, người đang tất bật thu dọn hành lý.

“Chúng ta chuẩn bị tới Ecbatana.”

“Ngài không định dẫn chúng tôi theo à?”

Parisa phản đối nhưng Don Ricardo đã ngăn lại. Estelle bệnh nặng, phải ngồi xe ngựa và đi rất chậm, không thể theo đoàn kỵ binh được.

Jaswant giải thích.

“Chúng tôi phải báo cáo lên triều đình về cuộc gặp gỡ với ngài Merlane ở Solymania càng sớm càng tốt, đồng thời cũng phải báo với đức vua rằng nữ hiệp sĩ Lusitania đã đến Pars. Chúng tôi không có ý bỏ rơi các vị.”

Cuối cùng Parisa cũng cúi đầu chấp nhận.

“Chúng tôi chỉ có thể di chuyển thật chậm để chăm sóc cho Estelle. Nhưng nếu các vị tới báo cáo trước cho nhà vua, ngài ấy sẽ sẵn sàng chào đón tại kinh đô.”

“Đương nhiên đó chỉ là biện pháp tạm thời. Ta sẽ cho 20 kỵ binh đi theo bảo vệ các vị.”

“Nếu các ngài có thể cấp cho chúng tôi phương tiện di chuyển và chỗ ở nữa thì càng tốt.”

“Đương nhiên. Cứ làm như vậy.”

Cuộc thương lượng giữa Parisa và các vị tướng Pars kết thúc một cách dễ dàng. Don Ricardo đứng bên cạnh quan sát với vẻ bối rối. Mỗi khi Parisa thể hiện sự tháo vát của mình, anh lại thấy bản thân thật vô dụng.

“Nhưng thế cũng tốt, ta có thể bỏ bớt gánh nặng.”

Nói rồi, anh ta ra ngoài khách sạn, đi lững thững như thể không có gì để làm. Người dân và binh lính trong thị trấn trải cát lên mặt nước bùn để đường phố dễ đi lại. Họ không muốn các hoạt động thường ngày bị cản trở. Don Ricardo đến một khoảng sân rộng hình vuông, nơi các thi thể được xếp dài ở đó chờ chôn cất. Vị bác sĩ già bán thuốc cho họ đêm qua cũng nằm trong số đó. Anh cúi đầu, cất lời cầu nguyện cho ông cụ.

Sang tháng 8, cuối cùng cũng sắp qua “Mùa chay giữa hè.” Dù nắng ban trưa vẫn thiêu đốt nhưng sáng sớm và đêm khuya, những cơn gió tiên phong của mùa thu lồng lộng lùa về, táo và lựu được chở đến khu chợ ở kinh đô hoàng gia Ecbatana từ sớm. Từ giờ cho đến lúc tuyết rơi, cả kinh thành sẽ chìm trong không khí mát mẻ.

“Nào uống đi. Nếu cứ chần chừ là bỏ lỡ mùa rượu ngon nhất đất. Đừng có keo kiệt, chọn loại đắt nhất mà uốngd đây này.”

“Anh có thể nào giảm giá cho tôi một chút khônh?”

“Tôi vất vả mang đến tận đây, sao mà bán rẻ được? Nhưng mà tôi có thể tặng cho anh một xiên thịt cừu nướng.”

“Anh đang cho đi đồ thừa đấy chứ, nghe chẳng có vẻ gì là ưu đãi cả.”

Ngày 8 tháng 8 năm 325 lịch Pars.

Vua Arslan vừa mới hoàn thành công việc buổi sáng. Số lượng văn bản có chữ ký của chàng xếp chồng lên nhau có thể cao đến thắt lưng một người trưởng thành. Tể tướng Lucian và quan giám sát sổ sách đã giúp xử lý phần lớn công việc nhưng cứ ba ngày lại có một núi tấu chương được gửi đến. Đất đai, thuế má, kế thừa, hạch tội, viện trợ người nghèo, vinh danh người tốt, cùng vô số thứ khác…

Bữa trưa được mang lên ngay lúc marzban Dariun ghé thăm.

“Ồ, anh đến đúng lúc quá. Để tặng thưởng sự nỗ lực của anh, Dariun, cùng ăn trưa với ta nhé. Elam, bảo đầu bếp chuẩn bị thêm một phần.”

Tuy nhiên, ngay sau khi chào nhà vua, Dariun lập tức đổi đề tài.

“Bệ hạ chắc còn nhớ cô hiệp sĩ tập sự người Lusitania mà người từng gặp khi còn là thái tử.”

“Đương nhiên ta nhớ. Estelle.”

Đôi mắt tựa bầu trời đêm trong vắt của Arslan liền tỏa sáng khi nhắc đến cái tên ấy.

“Quả là hoài niệm. Nhưng sao anh đột nhiên hỏi chuyện đó vậy, Dariun?”

Câu trả lời của Dariun rất ngắn gọn.

“Cô ấy đang ở đây.”

“Ở đây? Ai cơ?”

Điều đó bất ngờ đến mức Arslan không kịp phản ứng, chỉ ngây ngô cười.

“Estelle đã đến đây ư? Cô ấy đang ở đâu? Không đi cùng anh à?”

“Cô ấy đang trên đường tới kinh đô Ecbatana. Tuy nhiên…”

Giọng điệu lẫn vẻ mặt Dariun đều rất nghiêm trọng. Arslan lập tức cảm nhận được nỗi lo ngại bao trùm. Elam chỉ biết nín thở đứng bên cạnh quan sát.

“Chuyện gì xảy ra vậy? Không, Estelle đã về Lusitania từ 4 năm trước rồi mà. Ta cứ nghĩ cả đời sẽ không gặp lại cô ấy nữa chứ, vì sao cô ấy lại đến Pars? À, nhân tiện, anh chàng Parafuda, một người Lusitania bị mất trí nhớ mà cô ấy cứu, anh ta sao rồi?”

Những câu hỏi chất chứa suốt 4 năm cứ thế tràn ra khỏi miệng Arslan.

Thức ăn được dâng lên cho nhà vua bốc khói nghi ngút và tỏa hương thơm nhưng chàng không buồn để ý. Elam nhận thấy nhưng không tiện nhắc nhở.

Dariun trả lời.

“Tạm thời không nhắc đến anh chàng đó. Estelle đã chính thức được phong tước hiệp sĩ nhưng cô ấy bị thương nặng ở chân sau một vụ tai nạn. Vết thương hoại tử nghiêm trọng.”

Phải mất một lúc lâu, Arslan mới thốt nên lời.

“….Vậy tình hình thế nào? Có nguy hiểm lắm không?”

Dariun đắn đo, nhưng không thể không trả lời.”

“Vết thương rất nặng. Theo những người đi cùng thần…..À không, theo những gì thần thấy, sinh mạng của cô ấy vô cùng mong manh.”

Arslan cố gắng điều chỉnh giọng điệu của mình.

“Gọi thầy thuốc tới. Với tư cách là quốc vương, ta sẽ đối đãi chu đáo…”

Sau khi nuốt lại những lời còn dang dở, Arslan nhìn Dariun.

“….Quá muộn rồi ư?”

“Đã 7 ngày kể từ khi thần rời khỏi bọn họ ở Solymania, e rằng khó lòng tiến triển tốt được. Thần rất tiếc, nhưng chúng ta phải chạy đua với thời gian.”

Vị vua trẻ thở ra một hơi nặng nề.

“Vậy ta sẽ đi gặp cô ấy.”

Arslan đứng dậy. Elam vội vàng ngăn cản.

“Bệ hạ, công chuyện chiều nay thì thế nào? Có gần trăm người đang chờ yết kiến bệ hạ.”

“Ta lấy làm tiếc, nhưng buộc phải hoãn cuộc triệu kiến.”

“Những người này đã lặn lội nhiều ngày từ biên giới xa xôi đến tận kinh đô?

Arslan không thể phản bác, chỉ đặt tay lên vai Elam.

“Để ta đi, Elam. Đây là lần đầu, và chắc chắn cũng là lần cuối.”

“Vâng, thưa bệ hạ….”

“Cảm ơn. Ta nợ cậu lần này.”

Arslan cúi đầu trước vị thuộc hạ của mình, chân thành xin lỗi.

Elam nhìn trời, ngước mắt thở dài trước hành động của nhà vua. Nhưng anh cũng vội nhìn quanh,may là quanh đó không có ai khác ngoài Dariun. Anh quay sang Dariun, than thở.

“Bệ hạ, người không thể nhờ cậy thần được. Người phải ra lệnh cho thần.”

“Vậy cậu có thể để ta đi không?”

“Nếu người đã nói thế, thì xin nhanh chân lên. Chỉ cần ra bằng lối đó.”

Những lúc Arslan bí mật ra khỏi cung vi hành, chàng sẽ đi lối “Giữa các thiên thần”. Khi Arslan vừa gật đầu với Elam, thì một tiếng gọi khác vang lên từu sau lưng. Elam giật nảy mình, quay lại. Người thầy đang tiến đến trước mặt anh.

“Ngài Narsus….”

“Còn chưa chín chắn.”

Vị quân sư trông vô cùng bình thản.

“Dù sao cũng đang đóng vai kẻ xấu thì chí ít hãy thể hiện cho trọn vẹn chứ. Nghe nói có một tên mặc đồ đen dù đang giữa mùa hè đến thăm bệ hạ mà không thèm chào hỏi tể tướng hay eran, ta mới vội tới đây xem thử…”

Người mặc áo đen hay gây chuyện vừa được nhắc đến kia chỉ im lặng nhún vai. Nhà vua lập tức bênh vực người hầu cận của mình.

“Narsus, xin đừng trách Elam. Là do ta….”

“Bệ hạ, đừng nói chuyện với thần nữa. Người mà không nhanh lên, thần sẽ mách với ngài tể tướng phiền phức đó đấy.”

Narsus nhìn sang Elam, mắng anh một cách nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc.

“Elam, ngươi đang làm gì vậy? Dù chuyện gì xảy ra, nhiệm vụ của ngươi là bám sát không rời bệ hạ nửa bước. Mau đi theo!”

“Vâng vâng!”

“Narsus, cảm ơn ngài.”

Arslan và Elam chạy đi. Nhìn hai học trò hư hỏng, Narsus lại quay sang vị hiệp sĩ áo đen.

“Mới nãy ngươi nhìn ta bằng ánh mắt rất kỳ quái. Ngươi rốt cuộc muốn nói gì, đô tọc mạch?”

“Không. Ta tưởng ngươi sẽ làm khó bệ hạ, không ngờ ngươi còn hùa theo.”

“Ngươi nói vớ vẩn gì vậy?”

Narsus cáu kỉnh đáp, đưa tay phủi lớp bụi bám trên áo choàng của Dariun.

“Ngươi nghiện màu đen là vì mặc lên rồi không cần biết có dính bẩn hay không à?”

“Này này!”

“Thôi kệ đi, mau đuổi theo bệ hạ.”

“Được.”

Với câu trả lời ngắn gọn, Dariun sải bước ra ngoài. Narsus đi theo, thầm nhủ.

“Bệ hạ dường như ghét những từ như ‘số mệnh’…”

Narsus từng nghe Elam nhắc đến trước kia.

“….Nhưng hình như số mệnh không chịu buông tha người.”

------------------------

Jaswant đã đợi sẵn ở cổng thành Ecbatana. Arslan và Elam nhảy lên lưng ngựa đã được anh chuẩn bị, Dariun và Narsus cũng đuổi theo, tổng cộng có 5 người cùng phi hết tốc lực về phía đông.

Sau 1 đêm dừng nghỉ, mục tiêu đã xuất hiện ở vùng đất hoang cạnh Đại lục vương lộ. Vì Estelle không thể di chuyển được nữa nên họ đành dựng trại ở đó và chờ đượi. Họ nghĩ một sứ giả nào đó từ hoàng cung sẽ ghé thăm nhưng không ngờ người đến lại là nhà vua.

“Nhà vua đích thân tới đây ư?”

Parisa và Gassem cùng kêu lên, quỳ xuống khi thấy Arslan xuống ngựa và tới gần.

Gassem chỉ là một viên quan nhỏ và khao khát được thăng chức, việc hắn ta quỳ xuống khi thấy nhà vua là đương nhiên. Nhưng Parisa thì không hiểu sao lại thấy sợ hãi và làm theo, khiến cho Don Ricardo lấy làm kinh ngạc. Có lẽ bởi Parisa cũng là một người Pars, từ nhỏ đã được dạy dỗ phải tôn kính hoàng gia nên cô quỳ xuống để thể hiện lòng tôn kính ấy.

Thực tế, Don Ricardo đã gặp Arslan rồi. Khi ấy, anh ta mất trí nhớ và được gọi là Parafuda – Con ma trắng. Dù lúc hai người gặp nhau, Arslan còn là thái tử, nhưng ký ức của anh về quãng thời gian ấy như bị che phủ bởi sương mù, không sao nhớ lại được.

Về phần Arslan, tuy chàng từng gặp Parafuda nhưng ấn tượng khi ấy chỉ là một gã yếu ớt, không biết bản thân mình là ai, bị thứ gì đó đáng sợ làm cho phát điên. Nhưng giờ, tấm lưng anh ta thẳng tắp, toàn thân đầy sinh lực, cứ như một người khác hoàn toàn.

“Cảm ơn đã chăm sóc Estelle. Ta sẽ hậu tạ các vị sau.”

Vừa nói, Arlan vừa chạy vội về phía căn lều nơi Estelle đang nằm hấp hối.

Dariun, Narsus và Jaswant đứng bên ngoài, nhìn theo bóng lưng vị chúa trẻ. Parisa, Don Ricardo và Gassem cũng thế. Nhà vua bước vào căn lều mái vòm kiểu Pars, là loại lều dã chiến, đường kính chừng 5 gaz, dù thừa sức chống lại gió mưa nhưng bên trong rất đơn giản, không có đồ đạc gì. Ánh sáng bên ngoài bị lớp vải dày cản lại, khiến bên trong khá tối tăm.

Hương liệu được đốt lên để che mùi hoại tử từ vết thương của Estelle. Sau 4 năm mới gặp lại, cảnh tượng đáng buồn làm sao.

Lúc đầu, Arslan còn không nhận ra Estelle. Bởi so với Estelle trong trí nhớ, cô gái này quá trầm lặng, yếu đuối, không còn chút sức sống nào. Ấy thế nhưng ngay khi thấy Arslan, cặp mắt cô ngời sáng.

Estelle gượng dậy khỏi chiếc giường thô ráp bằng tất cả sức lực còn sót lại của mìn. Cô trút hết sự sống vào âm thanh cô cất lên.

“Arslan.”

“Estelle, đã lâu không gặp.”

Trên đường từ Ecbatana đến đây, chàng đã nghĩ mãi xem mình nên nói gì, nhưng rồi chỉ có thể thốt ra một lời chào hỏi bình thường như vậy. Estelle đáp lại bằng toàn bộ sức lực của mình.

“Tôi nghĩ chắc giờ anh phải mọc ra một cặp sừng dài lắm rồi….Nhưng dù không có sừng, trông anh vẫn rất tuyệt…”

“Cô cũng đã trở thành một hiệp sĩ xuất sắc.”

“Anh đúng là không biết nói dối, vậy mà lại thành vua của những kẻ ngoại đạo xấu xa. Thật đáng tiếc.”

Estelle muốn mỉm cười nhưng chỉ cong khóe miệng không còn huyết sắc ấy thôi cũng khiến cô thở hổn hển vì đau. Arslan nắm lấy bàn tay cô, cảm thấy nó lạnh buốt.

“Parisa và Parafuda…”

“Ừ.”

“Tôi giao họ lại cho anh. Mong anh giúp đỡ họ sau này.”

“Ta biết rồi.”

“Parafuda thì anh cũng quen đấy. Anh ta không thể về Lusitania được nữa. Còn Parisa thì vốn là người Pars…Arslan này….”

Cô thều thào gọi, và Arslan ghé lại thật gần.

“Có chuyện gì vậy? Cô nói đi.”

“Tôi còn muốn nói nhiều lắm, nhưng thế là đủ rồi.”

“….”

“Tôi đã gặp lại anh, thế là đủ rồi.”

“Estelle.”

“Chỉ cần có thể nhìn thấy anh…”

Lời nói của Estelle tắt dần. Như thể đã bộc bạch xong tâm tư trong lòng bấy lâu, cô khép mắt lại. Arslan nhẹ nhàng gọi.

“Estelle…?”

Không có câu trả lời. Hàng mi rũ xuống, đôi môi mím chặt không bao giờ mở ra nữa. Estelle de la Fano, nữ hiệp sĩ Lusitania, đã kết thúc đời mình trên một cánh đồng hoang xứ Pars, cách rất xa quê hương cô.

Gió thổi qua hoang mạc. Trong chốc lát, căn lều phần phật bay.

Bên ngoài, bảy người cả nam và nữ đều im lặng. Người đầu tiên không chịu đựng được nữa là Gassem. Hắn ta quan sát các vị tướng và đánh giá từng người một, sau đó bắt gặp Dariun. Hắn liền mang ra chiếc hộp, khoe khoang cái đầu của “Vị tướng Turk lừng danh.”

Là một người có lịch sử chinh chiến dài dằng dặc như Dairun, anh không thể nào nhớ hết mặt tướng lĩnh mình gặp phải trên chiến trường. Nhưng anh đã từng gặp Sign cách đâu không lâu, cho nên khi thấy cái đầu được bảo quản trong sáp ong, anh liền sực nhớ.

“Hắn quả thực là một vị tướng có tiếng ở Turk. Tên hắn là Sign.”

“Đúng rồi, chính là tên Sign đó. Quả nhiên hắn là một danh tướng. Khó khăn lắm mới giết được hắn đấy.”

Dariun mỉm cười chán nản, quay sang Gassem, kẻ đang vô cùng tự mãn.

“Vậy ngươi đã bắt giữ tướng Sign và khiến hắn thành ra như này?”

“À không, tôi chỉ làm nưa sau, còn lại thì…”

“Nửa sau?”

“Thì công việc của tôi là ngâm cái đầu của Sign vào sáp ong, nếu không nó sẽ thối rữa vì nắng gắt. Phải có cách nào bảo quản nó chứ.”

Dariun bỏ qua qua lời khoe khoang thành tích ấy.

“Vậy nửa trước là ai làm? Ai biến một tên Sign còn sống thành người chết?”

“Là gã Lusitania tóc trắng đó. Nếu ngài muốn khen thưởng tôi thì…”

“Hừm, đánh bại được Sign thì hẳn là hắn ta chiến đấu không tồi.”

Don Ricardo quay đầu lại, đối diện ánh mắt của Dariun.

“Tôi cũng không phải người hạ tên Sign đó đâu.”

“Vậy là ai?”

“Bản thân hắn ta. Tôi chỉ khiến hắn bị thương, sau đó hắn tự sát. Tuy tôi không biết cụ thể thế nào, nhưng hình như các vị tướng của Turk không thể đầu hàng hau bị bắt.”

“Hình như vậy. Ở Turk, dù một người có nỗ lực đến mấy cũng không được tha thứ một khi bại trận. Thật đáng buồn cho họ khi phải phục vụ tên vua như thế.”

Jaswant thở dài. Lẽ ra anh nên nhận thấy hoàn cảnh của bản thân mình như thế vào 4 5 năm trước.

“Ta rất khâm phục anh khi đã thẳng thắn thừa nhận. Ta cũng có nhiều điều muốn hỏi. Đằng nào chúng ta cũng phải đến kinh đô hoàng gia. Ta sẽ xin phép bệ hạ, các vị hãy đi cùng ta.”

Nghe Dariun nói, Don Ricardo do dự một hồi rồi đáp.

“Được.”

“Anh lo lắng chuyện gì à?”

“Tôi là người Lusitania.”

Ý nghĩa của câu này quá dễ hiểu với người Pars.

“Vậy thì sao? Dưới trướng bệ hạ có một vị tướng người Sindhura và một vị tướng người Turan đấy. Bệ hạ không hẹp hòi đến mức không chứa chấp một người Lusitania.”

Dariun nghĩ một lúc rồi nói thêm.

“Đáng lẽ là hai người, nhưng chắc một người sẽ không qua khỏi.”

Khi nói câu này, hiệp sĩ áo đen dùng thì tương lai. Rất dễ đoán ra hai người ấy là ai. Chỉ là lúc này, họ không biết rằng một trong hai ĐÃ không qua khỏi.”

“Tổng giám mục Bodin chết rồi.”

Dariun mở to mắt.

“Chắc chắn không?”

“Tôi không rõ chi tiết, nhưng nghe nói công tước Guiscard giết lão sau một trận chiến.

“Ồ, bọn họ giết lẫn nhau sao…”

Dariun không nói nốt phần tiếp theo : “Thực ra ta muốn tự tay tiêu diệt cả hai tên.” Nhưng trước mặt người Lusitania, anh không nên thốt ra câu này.

-------------------------

Khi bước ra khỏi lều, không còn giọt nước mắt nào trên khóe mắt Arslan. Dariun cà Narsus cùng chung suy nghĩ với vị vua trẻ. Trái lại với sự điềm tĩnh, tự chủ mà vị tướng áo đen cảm nhận được, anh chàng họa sĩ cung đình Narsus lại âm thầm đánh giá, còn Elam thì che giấu những suy nghĩ của bản thân. Hiện giờ họ đang trong hoàn cảnh không thể khóc, cũng không có thời gian mà khóc.

Arslan nhìn các vị tướng trung thành của mình, rồi tới trước mặt Don Ricardo.

“Ta có chuyện muốn nhờ anh.”

“….Nhờ tôi sao?”

“Anh có thể cầu nguyện bằng kinh thánh Yadabaoth cho Estelle không?”

“Vâng, dù tôi không phải linh mục, cũng không có đức tin sâu sắc lắm, đơn giản là người thường. Vậy cũng được chứ?”

“Nếu là lời cầu nguyện của anh, ta tin rằng Estelle sẽ rất vui mừng. Ngay cả bản thân ta cũng muốn những người bạn thân thiết nhất cầu nguyện cho mình sau khi chết chứ chẳng phải thầy tu danh tiếng nào.”

Câu nói “người bạn thân thiết” khuấy động trái tim Don Ricardo. Anh ta cúi đầu như thể không sao nhìn thẳng vào mặt nhà vua.

“Vậy tôi xin tuân lệnh.”

Ở Pars cũng có người theo đạo Yadabaoth, hầu hết đều đến từ Maryam. Nhưng họ thuộc giáo phái khác với người Lusitania, cho nên lời cầu nguyện hay nghi thức tưởng nhớ cũng khác nhau.

Arslan lại bước vào lều, lần này có 6 người Pars và 1 người Lusitania đi theo. Họ lặng người phút chốc trước vong linh người đã khuất, hít sâu một hơi, rồi người Lusitania bắt đầu cầu nguyện.

“Xin chúa dẫn dắt linh hồn cô ấy và mở cánh cửa thiên đường cho cô ấy được đến bên người.”

Don Ricardo thì thầm, nghĩ thêm vài câu trong kinh thánh Yadabaoth nhưng không tìm được từ thích hợp. Kinh thánh chỉ có một quyển, nếu cầm trong tay ắt hẳn sẽ tra được thôi, nhưng bản thân anh ta không thuộc kinh thánh nằm lòng. Cho nên những câu tiếp theo đều do anh nghĩ ra.

“Estelle de la Fano là một con người dũng cảm. Cô ấy đã cống hiến thân mình để đề cao lòng nhân đạo, giúp đỡ người yếu thế. Vì lý do này, cô hy sinh mạng sống mà không hề hối tiếc. Cô là người bạn đáng quý dù với bất cứ quốc gia nào. Những người được cô giúp đỡ đều hết lòng mang ơn và tôn vinh cô. Xin hãy ban phước cho Estelle de la Fano.”

Nói rồi, Don Ricardo mới nhớ ra không ai ở đây biết tiếng Lusitania.

“Estelle là một cô gái Lusitania tốt bụng.”

Vị vua người Pars lặng lẽ nói.

“Hãy an táng cô ấy cùng lời vinh danh.”

Không ai đáp lại Arslan. Ngay cả Gassem cũng im lặng.

“Estelle đưa những thương binh và trẻ nhỏ không thể chiến đấu đến Ecbatana. Dù rằng sau này, họ đều hy sinh trong trận chiến nhưng đáng lẽ ra phải có một nghĩa trang để chôn cất họ cho đàng hoàng. Ta rất ngưỡng mộ cô ấy. Ta sẽ bảo vệ những gì cô ấy để lại sau khi chết.”

“Vâng, thưa đức vua.”

Dù người nói bằng tiếng Pars nhưng người đầu tiên đáp lại bằng Lusitania. Don Ricardo bối rối cúi đầu.

“Xin thứ lỗi, tôi vô tình nói tiếng mẹ đẻ.”

“Ta hiểu sự chân thành của anh. Ta không cần gì khác. Cảm ơn anh rất nhiều.”

Don Ricardo càng cúi đầu thấp hơn.

Dù từ vài ngày trước, Don Ricardo đã ý thức được cái chết của Estelle đang đến gần nhưng khi thật sự xảy ra, điều đó vẫn khó đối mặt hơn anh tưởng tượng. Qua lời cầu nguyện, Don Ricardo nhận ra rằng trên mảnh đất này, không còn ai có thể trò chuyện với anh bằng tiếng mẹ đẻ nữa. Đương nhiên giao tiếp tiếng Pars với anh không có gì bất tiện, nhưng dù Lusitania cằn cỗi ra sao, những kẻ cầm quyền thối nát thế nào, đó vẫn là quê hương anh. Giờ đây, người duy nhất cùng anh chia sẻ một khung cảnh, một ngôn ngữ đã không còn nữa.

Chợt có người tiến đến nắm lấy tay anh. Đó là Parisa, cùng sự ấm áp mềm mại chỉ thuộc về riêng cô.

Arslan nhìn hiệp sĩ Lusitania cùng người yêu của anh ta.

“Anh có muốn quay lại Lusitania không?”

Qua giọng nói điềm đạm đó, Don Ricardo vẫn cảm nhận được sự kìm nén của vị vua trẻ.

“Không, tôi đã không còn lưu luyến gì ở Lusitania nữa.”

“Vậy thì ta sẽ ra lệnh.”

Cũng như giọng nói, đôi mắt Arslan vô cùng điềm tĩnh nhưng tỏa ra tia sáng khó lòng cưỡng lại.

“Từ hôm nay trở đi, anh sẽ vứt bỏ cái tên Don Ricardo. Tên anh là Parafuda. Thay vì cái tên tiếng mẹ đẻ, anh sẽ được gọi bằng cái tên tiếng Pars là Parafuda, và là một thành viên trong quân đội của ta.”

Những lời hết sức bất ngờ.

Nhưng Don Ricardo không quá ngạc nhiên. Bóng hình của Estelle như thấp thoáng trong dáng vẻ lẫn giọng nói của Arslan, và anh coi những điều vừa được tuyên bố ấy như một lẽ dĩ nhiên.

Dariun, Narsus, Jaswant nhìn Don Ricardo không nói nên lời. Don Ricardo hít sâu một hơi, khó khăn cất giọng.

“Xin tuân lệnh.”

Nhìn người yêu với đôi mắt sưng lên vì khóc, Parisa thuyết phục.

“Cô Estelle chắc chắn sẽ vui mừng.”

“Ta biết.”

Don Ricardo nhìn Arslan, cẩn thận lựa lời bằng tiếng Pars.

“Nếu Estelle còn đây, chỉ cần cô ấy muốn quay về thì tôi sẽ về Lusitania bằng mọi giá. Tôi sẵn sàng đồng hành dù trước mắt có cả trăm ngàn kẻ địch. Nhưng Estelle không nói vậy....Cô ấy chỉ mói muốn gặp ngài, thưa đức vua.”

“....”

“Cuộc hành trình của tôi đã kết thúc ở đây. Sau khi tôi mất trí nhớ, người dân Pars giúp đỡ tôi rất nhiều. Họ đặt cho tôi một cái tên, và tôi xin nhận lấy cái tên này : Parafuda.”

Parafuda quỳ một gối xuống.

“Cảm ơn lòng tốt của bệ hạ. Thần, Parafuda sẽ thay mặt Estelle phụng sự bệ hạ.”

----------------------

Trở lại 1 tháng trước khi Estelle de la Fano qua đời.

Tại kinh đô Ecbatana của vương quốc Pars, một âm mưu thâm độc bậc nhất được ghi trong sử sách các vương quốc trên Đại lục vương lộ đã hình thành. Năm người tham gia chiến dịch ấy bao gồm vua Arslan, phó tể tướng kiêm họa sĩ cung đình Narsus, eran Kishward, marzban Dariun và đội trưởng Elam.

“Dù sao, có vẻ Peshawar vẫn được an toàn.”

Sau khi tổng hợp các báo cáo, Kishward kết luận. Một người nhìn vẻ mặt tán thành của nhà vua rồi lên tiếng.

“Đó là tin tốt, nhưng thần muốn hỏi bệ hạ một chuyện.”

“Chuyện gì thế Narsus?”

“Thần muốn xin bệ hạ từ bỏ Peshawar.”

Lời này như sét đánh ngang tai tất cả những người mặt khi ấy. Ngay khi vừa nhận tin báo rằng Peshawar còn bình an, giờ lại từ bỏ, điều đó nghãi là gì?”

Arslan quan sát Narsus hồi lâu rồi chậm rãi hỏi, như thể xác định âm mưu thực sự của anh ta.

“Từ bỏ Peshwar tức là triệu quân của Kubard về kinh đô sao?”

“Chính xác.”

“Ta muốn nghe lý do của ngài, Narsus.”

“Đương nhiên rồi.”

Vị họa sĩ cung đình nhìn ba người đứng bên nhà vua. Tuy nhiên, có vẻ như anh ta sẽ không giải thích ngay nên Dariun sốt ruột nói.

“Đội quân ma quỷ liên tục tấn công, khó có thể đoán trước khi nào sẽ xảy ra trận chiến lớn. Cho nên ngươi mới muốn tập trung toàn bộ lực lượng về kinh đô phải không?”

“Chỉ một phần thôi.”

“Đừng tỏ ra bí hiểm nữa, mau nói đi.”

Nghe lời phàn nàn của Dariun, Narsus bình tĩnh giải thích với vị vua trẻ.

“Peshawar là một pháo đài lớn, là thành trì tuyệt vời của các chiến lược gia. Việc giữ vững thành trì ấy là điều đương nhiên với các đời vua Pars, nhưng đồng thời điều đó cũng khiến số chiến lược ta có thể lựa chọn bị hạn chế.”

Nhất định phải có một lượng quân số được triển khai ở Peshawar dưới sự dẫn dắt của một chỉ huy giàu thực lực. Vào thời vua Andragoras là hai marzban Bahman và Kishward, còn dưới thời vua Arslan thì là Kubard và Merlane.

“Kể cả khi kinh đô cần quân của ngài Kubard cùng các đồng đội cũng khó lòng triệu hồi về ngay. Trong khi đó, việc gửi quân tiếp viện cho Peshawar cũng mất rất nhiều thời gian. Mặt khác, trong trường hợp kinh đô rơi vào tay kẻ địch, nếu Peshawar vẫn còn thì ta có thể dùng nơi đó làm căn cứ để phản công.”

Mọi người đồng loạt gật đầu. Cách đây 5 năm, thái tử Arslan đã tới Peshawar sau khi cánh cổng kinh đô sụp đổ trước cuộc xâm lược của người Lusitania.

“Ta chưa bao giờ lo Peshawar sẽ thất thủ. Đó là nơi hiểm yếu, chưa kể còn có ngài Kubard trấn thành, không thể nào hạ bệ dễ dàng. Mà những tin tức gần đây cũng chứng minh điều đó.”

Anh ta muốn nói đến cuộc tấn công của đội quân ma quỷ vào thành Peshwar. Mọi người một lần nữa đều gật đầu đồng tình.

“Điều ta lo lắng là đội quân ma quỷ sẽ tấn công một thành phố đông dân cư như Solymania hoặc chiếm núi Mortaza. Nếu chuyện đó xảy ra, Đại lục vương lộ sẽ bị phong tỏa, Peshawar bị cô lập, hơn 1 vạn kỵ binh tinh nhuệ sẽ bị chia cắt, chỉ có thể bất lực đứng nhìn trong vô vọng.”

Kishward đắn đo một hồi.

“Nhưng chẳng phải gần đây mối nguy đã giảm bớt rồi sao? Đội thủy quân của ngài Gurazeh vẫn đang làm tốt.”

“Cho nên ngài họa sĩ cung đình đây mới có dịp để ủ mưu.”

Nghe lời mỉa mai của Dariun, Narsus chỉ nhếch khóe môi cười.

“Thành thật mà nói, ta đã rất đau đầu ngũ xem làm thế nào để giữ vững Peshawar, nhưng rồi sau cùng, ta cho rằng tốt hơn hết là loại bỏ nguồn cơn của mọi rắc rối...”

Narsus bỏ lửng câu nói đó với một nụ cười đầy vẻ cao quý, nhưng cũng có người nói rằng đó là nụ cười xấu xa nhất trần đời.

“Đội quân ma quỷ, quân Turk, quân Sindhura, cứ để bọn chúng đánh nhau sứt đầu mẻ trán để giành Peshawar, một tòa thành trống. Đó là chiến lược của ta.”

Lại một tiếng sét ngang tai nữa khiến ai nấy lặng người. Arslan, Dariun, Kishward và Elam đều nhìn chằm chằm Narsus.

“Tên chiến binh điên cuồng Ilterish đã không thực hiện được tham vọng chiếm Peshaward nhờ có ngài Kubard ngăn chặn. Tòa thành ấy đã trở thành nỗi ám ảnh của hắn. Nếu biết quân ta rút khỏi Peshawar, hắn nhất định sẽ xua lũ quái vật đến tấn công.”

“Kể cả khi có quân Sindhura và Turk ở đó, hắn cũng không quan tâm.”

“Hắn sẽ không do dự. Đối Ilterish, quân Sindhura hay quân Turk đều chỉ là những kẻ thù đang nhăm nhe chiếm con mồi của mình. Bọn chúng sẽ tàn sát nhau không thương tiếc, phải không Dairun?”

“Ngươi nói đúng.”

Sau khi chiến binh áo đen miễn cưỡng gật đầu, Arslan bèn lên tiếng.

“Narsus, ta chỉ có chút bận tâm.”

“Người lo dân chúng bên ngoài thành Peshawar sẽ phải gánh chịu hậu quả của trận chiến phải không?”

“Đúng như ngài nói.”

“Đừng lo, thần sẽ giải thích lần lượt.”

Narsus hướng ánh mắt sang Elam. Elam nuốt khan, phải vắt hết óc để suy đoán chiến lược của người thầy.

Cái bẫy Narsus giăng ra quá hiểm độc, khiến đối thủ không có lựa chọn nào. Mà kể cả khi biết đó là bẫy, nếu Sindhura không ra tay thì Turk sẽ cướp mất Peshawar. Còn nếu Turk làm ngơ, Peshawar sẽ rơi vào tay Sindhura.

Nếu mất Peshawar vào tay kẻ địch, tổn hại vô cùng to lớn, cho nên nếu không muốn điều đó xảy ra thì phải hành động nhanh hơn kẻ thù. Lợi ích của Sindhura và Turk xung đột với nhau, hai nước không thể cùng chiếm giữ Peshawar. Mà dù bọn họ chia nhau cai quản thì làm sao? Ai cũng muốn độc chiếm thành trì này cả, sớm muộn cũng mâu thuẫn.

Điều gì xảy ra nếu trong lúc Sindhura và Turk do dự, Ilterish dẫn đội quân quỷ đến giành lấy Peshawar? Dù có vẻ như đội quân quỷ này đã có được một căn cứ vững chắc nhưng trên thực tế không phải như vậy. Sindhura và Turk biết đến sự tồn tại của đội quân này, cũng biết Ilterish còn sống. Nếu Ilterish dại dột rời căn cứ, quân Sindhura và Turk sẽ tấn công căn cứ vô chủ của hắn, cho nên Ilterish bị buộc chân, không thể đi đâu.

Ngoài ra, còn dân chúng sống ngoài thành Peshawar nữa. Nhất định không được để họ vướng vào trận chiến này. Nhưng lý do tiên quyết để quân đội tàn sát dân chúng là gì?”

“Giao Peshawar ra, nếu không ta sẽ đồ sát dân thường.”

Lời đe dọa ấy có tác dụng nếu phe giữ thành Peshawar là quân Pars. Dù là Sindhura hay Turk, nếu muốn chiếm Peshawar lâu dài, họ không thể trở thành kẻ thù của người dân. Họ không bị thôi thúc bởi lòng cuồng tín như người Lusitania.

Và nếu đội quân quỷ muốn làm gì thì hải quân của Gurazeh đã sẵn sàng đưa người dân sơ tán. Nơi ẩn náu nằm trong lãnh thổ Sindhura. Họ đã mua một mảnh đất lớn và khai hoang ổn thỏa, dân chúng có thể yên tâm ẩn náu một thời gian.

Sau khi đặt ra từng câu hỏi, Dariun lại đưa thêm một vấn đề.

“Vua Kalhana của Turk là kẻ xảo quyệt. Liệu ông ta có dễ dàng bị ta nắm thóp như vậy không?”

“Ông ta hẳn là sẽ không hành động ngay mà quan sát tình thế với sự ngờ vực cao. Nhưng nếu thế thì trong lúc quân đó, quân Sindhura đã tiến vào tòa thành trống Peshawar, Turk sẽ mất kho báu lớn này vào tay kẻ thù.”

“Vậy là mọi tội lỗi đều do vua Kalhana, ông ta không thể nào đổ trách nhiệm cho các thuộc tướng được nữa.”

“Vua Kalhana có nuốt trôi nỗi nhục ấy không?”

“Quả là không thể.”

“Nếu không nuốt nổi, vậy vua Kalhana đâu còn cách nào khác ngoài tấn công Peshawar. Khó nói được giữa Sindhura và Turk bên nào mạnh hơn, nhưng với Peshawar thì Sindhura có lợi thế hơn.”

“Đúng, nếu Shindhura tấn công Peshawar với 3 vạn quân, Turk sẽ phải huy động tới 10 vạn để giành được nó. Ngay cả khi Turk huy động lực lượng lớn như vậy cũng không tránh khỏi việc phòng thủ trong nước bị suy yếu. Tình thế khá bất lợi.”

Kalhana và vị vua khôn ngoan, ưa ẩn nấp và được gọi với biệt danh Vua lửng, ông ta chắc sẽ chọn cách lợi dụng quân Sindhura.

Lần này đến lượt Kishward hỏi.

“Nhưng nếu không ai trong số họ hành động thì sao?”

“Thì Peshawar vẫn sẽ là một tòa thành trống. Chờ khi giải quyết xong vấn đề, ta sẽ điều quân đến trấn thủ lần nữa.”

“Ta hiểu rồi. Narsus, việc này xin giao cho ngài.”

Sau khi suy nghĩ hồi lâu, Arslan quyết định. Bốn người còn lại cúi chào nhà vua. Khi ngẩng lên, Dariun nhìn thẳng vào bạn mình.

“Ngươi có thể nghĩ ra được một âm mưu xấu xa như thế, ta thật phục ngươi sát đất.”

“Nếu muốn ca ngợi ta thì để sau đi.”

“Từ khi sinh ra đến giờ, lần đầu tiên ta có cảm giác này.”

“Cảm giác gì cơ?”

“Cảm thấy vua Rajendra của Sindhura thật đáng thương.”

“Thế thì ngươi bị ảo giác rồi.”

“Ta cũng nghĩ vậy.”

Và đó là sự thờ ơ của các tướng lĩnh Pars đối với vị vua trẻ xứ Sindhura.

Thế là, quyết định bỏ thành Peshawar gây chấn động sử sách đã được quyết định và tiến vào giai đoạn thực hiện bước đầu.

Chú chim ưng Azrael bay đến Peshawar truyền tin. Dariun và Jaswant đã tiến hành bàn bạc với Merlane lần cuối ở thành Solymania. Estelle cùng những người đồng hành kẹt lại ở thành phố đó do mưa lớn và bị đội quân quỷ bất ngờ tấn công, cuối cùng biến thành một trận hỗn chiến.

-----------------------

Tang lễ của Estelle de la Fano, nữ hiệp sĩ người Lusitania diễn ra giản dị và lặng lẽ. Dù là “bạn của nhà vua trước khi lên ngôi” nhưng cô không phải quốc khách, cũng không phảu quan chức nên không có lý do gì để tổ chức an táng long trọng. Vua Arslan không đưa ra thông báo chính thức nào về Estelle khi chàng quay về kinh đô hoàng gia. Chàng chỉ hạ lệnh cho quan chưởng sự sắp xếp nơi ở cho Parafuda và Parisa.

Ngày 22 tháng 8.

Một buổi lễ lớn diễn ra trong cung điện.

“Rukhnabad….”

Arslan thì thầm với thanh gươm hộ quốc mà chàng rất ít khi đem ra.

“….Ngươi đã bảo vệ ta. Tuy nhiên, ngươi không cần bảo vệ ai khác ngoài ta cả, bởi đó là trách nhiệm của ta.”

Một âm thanh phát ra từ góc hành lang. Arslan nhìn sang đó.

“Bệ hạ….”

“Ồ, anh là Gasem phải không?”

“Quả là vinh dự khi bệ hạ còn nhớ tên thần. Thực ra, chú Lucian của thần đã ra lệnh cho thần canh giữ lăng mộ của cô Estelle.”

“….Vậy à? Hãy làm cho tốt nhé.”

Arslan đến thăm nghĩa trang Lusitania chỉ với Elam theo cùng. Đó làm một khu vườn rộng vỏn vẹn 10 mét vuông. Những khóm hoa đậu lupin, hoa oải hương, hoa anh túc, hoa atiso nở rộ từ cuối hè sang thu. Tấm bia mộ nhỏ bằng đá cẩm thành trắng hoàn toàn chìm trong đó.

“Đây là lăng mộ sao?”

Elam hỏi, nhưng Arslan không đáp. Gassem chen ngang.

“Vâng vâng, thay vì xây lăng tẩm hoành tráng, tôi nghĩ nên chôn cất cô ấy bằng hoa tươi. Đương nhiên đó chỉ là ý kiến cá nhân của tôi.”

Nói rồi, Gasem thấy lưỡi mình cứng đờ. Arslan chỉ im lặng nhìn sắc hoa rực rỡ. Bên cạnh chàng, Elam liếc nhìn Gasem bằng cặp mắt sắc bén.

“Nếu như bệ hạ không vừa lòng, thần sẽ cho sửa lại ngay. Xin bệ hạ thứ lỗi…”

Bấy giờ Arslan mới lên tiếng.

“Gasem.”

“Có…có thần.”

“Anh đã làm tốt. Đúng là thế này tốt hơn nhiều, rất hợp với Estelle.”

“Cảm ơn bệ hạ khen ngợi.”

“Anh là người chu đáo. Nếu có thể, hãy tìm đến và làm việc cho ta. Anh đồng ý chứ?”

Gasem sung sướng quỳ rạp xuống mặt đất. GIọng nói của nhà vua vang trên đầu hắn ta.

“Lát nữa anh có thể tới cung điện và báo cáo với tể tướng.”

“Vâng, thật vinh dự cho thần. Thần lấy làm tự hào khi được bệ hạ coi trọng.”

Vì dập đầu quá mạnh nên khi ngẩng lên, trán hắn ta đầu cỏ và bụi bẩn. Lúc này, bóng lưng của Arslan và Elam đã rời đi được 30 bước.

Gasem làm một cử chỉ vui vẻ, cúi đầu hết sức kính cẩn trước tấm bia mộ nhỏ bằng đá cẩm thạch.

“Cô Estelle, dù cô là người Luistania và tôi ghét người Lusitania, nhưng cô thì khác. Cô là ân nhân của tôi. Tôi không còn phải lang thang ở vùng nông thôn nữa, không còn là viên quan nhỏ mót từng đồng thuế của dân nữa. Tôi đã là Gasem, cận thần của đức vua. Tất cả là do tôi đã đưa cô đến kinh đô hoàng gia. Tôi không biết sau này mình thế nào nhhưng tôi nhất định sẽ không quên cô.”

Không biết nên nói hắn ta thành thật hay trơ trẽn, nhưng có vẻ hắn cực kỳ nghiêm túc. Sau khi cầu khẩn một cách thành tâm, Gasem đứng dậy, rồi bất chợt hét lên.

“Này, có ai ở đây không? Nghĩa trang của cô Estelle là một khu vườn. Hoa ở đây không được cắt bỏ, dù là xuân hạ thu đông. Nước, ngày nào cũng phải tưới nước. Hãy làm theo chỉ dẫn của ta. Không được để cho cỏ dại mọc hoang.”

Vào ngày này, Arslan hiếm khi mang gươm báu Rukhnabad bên mình và đưa ra thông cáo thay đổi cơ cấu quân đội Pars. Chàng phong tước cho 16 vị tướng, tuyên bố nhân danh Rukhnabad.

Tất cả mọi người tập trung trong căn phòng lớn.

Arslan đứng giữa, 8 người bên trái, 8 người bên phải. Từ góc nhìn của tể tướng Lucian, từ trái sang phải lần lượt là Elam, Jaravant, Jimsa, Tus, Merlane, Alfarid, Narsus, Kishward rồi đến Arslan, Dariun, Gieve, Farangis, Kubard, Jaswant, Isfan, Gurazeh và Parafuda.

Sự sắp xếp này không có ý nghĩa nào đặc biệt. Nếu có thì ở đây, Elam là người trẻ nhất, còn Parafuda gia nhập gần nhất nên họ được để ý nhiều hơn.

Tể tướng Lucian đọc tên từng người và trao cho họ dải băng có con dấu do đích thân vua Arslan chuẩn bị. Cuối cùng, Arslan buộc dải băng ấy, đeo lên cổ vị tướng đang quỳ gối trước mặt mình. Chàng rút thanh Rukhnabad bên hông, giữ thẳng lưỡi kiếm, đặt mặt phẳng của lưỡi kiếm vào lòng bàn tay vị tướng. Tương truyền rằng kẻ nào có lòng phản nghịch, lòng bàn tay kẻ đó sẽ bị gươm báu của nhà vua đốt cháy.

Buổi lễ được thực hiện theo thứ tự Arslan gặp từng người trong số họ. Dù là sớm một ngày hay muộn một ngày, bắt đầu với người chàng quen biết trước tiên. Đầu tiên là Dariun, sau đó là Narsus, Elam, Farangis, Gieve, Alfarid, Kishward, Jaswant, Jaravant, Isfan, Tus, Gurazeh, Merlane, Jimsa, Kubard và cuối cùng là Parafuda.

Không ai trong số họ bị lưỡi gươm làm bỏng.

----------------

Dù được người đời sau gọi là “16 vị tướng của Vua giải phóng Arslan” nhưng thực tế không có chức danh nào là “16 vị tướng cả”. Vào ngày 22 tháng 8 năm 325 lịch Pars, 16 chiến binh có tên trên đây được chính tay Arslan phong tước được gọi là “16 tướng giải phóng.” Hơn nữa, 15 trong số 16 người này, trừ người mới nhất là Parafuda, đã chiến đấu cùng nhau kể từ tháng 9 năm 321 lịch Pars, khi Arslan mới lên ngôi. Thời kỳ của “15 vị tướng” còn dài hơn.

Dù vậy, cái tên “16 vị tướng giải phóng” vẫn được lưu truyền trong sử sách xứ Pars. Người đời sau ghi nhớ sự cai trị của Arslan cùng những chiến binh đã phò trợ ngài, được các thi sĩ hết lòng ca tụng.

Trong số 16 người ấy có 11 nam giới người Pars, 2 phụ nữ người Pars, 1 nam giới người Sindhura, 1 nam giới người Turan và 1 nam giới người Lusitania. Kubard lớn tuổi nhất, 36 tuổi còn Elam trẻ nhất, 18 tuổi. Chỉ có Elam là nhỏ hơn vua Arslan, 19 tuổi. Các vị tướng lẫn nhà vua trẻ đã nỗ lực hết mình cho sự nghiệp phục hưng vương quốc Pars vĩ đại.

Ai có thể phá vỡ đại nghiệp này?

Từ kinh đô đến biên giới, đủ loại chuyện lạ lùng diễn ra. Mây đen trôi khỏi bầu trời bình yên và thịnh vượng. Dù vậy, người ta vẫn nghi hoặc về sự trở lại của Xà vương Zahhak cũng như lời đồn rằng hắn đã hồi sinh hoàn toàn. Chiến lược từ bỏ Peshawar tuy lạ lùng nhưng cũng phải nói đó là một cách rất thông minh để kìm hãm hai quốc gia phía đông là Sindhura và Turk. Ai ai cũng biết một cuộc chiến tổng lực sẽ diễn ra, và họ đang chuẩn bị cho điều đó.

Vào đêm lễ phong hiệu 16 vị tướng giải phóng được cử hành, một bữa tiệc trọng thể cũng diễn ra. Trong 7 ngày tiếp theo, họ đến thăm hỏi lẫn nhau hoặc ghé chơi kỹ viện, tận hưởng sự bình yên ngắn ngủi trước cơn bão. Duy chỉ có Gurazeh rời kinh đô vào ngày thứ 5, lý do thì chỉ một số ít người biết, trong đó có nhà vua.

Ngày 30 tháng 8, khi Arslan quay về với công việc triều chính, một người đàn ông xin được diện kiến chàng.

Đó chính là Ferdas, quan quản lý lăng mộ hoàng gia.

Vốn là một người cao lớn đạo mạo với phong thái điềm đạm nhưng giờ trông ông ta hốc hác, gầy gò. Chưa ai kịp hỏi ông tìm đến có chuyện gì thì ông đã quỳ rạp xuống, gần như hét lên.

“Dù cho hình phạt có là gì đi nữa, thần cũng xin nhận. Xin bệ hạ giáng tội.”

Arslan giật mình, đưa mắt nhìn tể tướng Lucian bên cạnh.

“Ta chỉ trừng phạt khi ngài làm sai chuyện gì đó. Nhưng cho đến giờ ngài vẫn luôn làm tốt.”

“Thần vô cùng biết ơn khi được giao nhiệm vụ cao quý là chăm sóc lăng mộ của các vị tiên vương…”

“Ta biết.”

Vị vua trẻ mỉm cười. Ferdas thấy vô cùng hổ thẹn khi những kẻ bí ẩn tấn công lăng mộ của nhà vua vào cuối năm ngoái vẫn chưa có tung tích, và bày tỏ bản thân sẵn sàng chịu phạt.

“Ta tin dù lăng mộ tiên vương có quan trọng đến mấy thì việc hy sinh người sống vì người đã khuất là một sai lầm. Ta đánh giá cao ngài Ferdas vì sự trung thực, và ra lệnh cho ngài tiếp tục công việc cai quản lăng mộ hoàng gia. Tuy nhiên, nếu ngài nói muốn nghỉ ngơi một thời gian, ta sẽ tìm cho ngài một người thay thế.”

Dù Arslan là một vị vua rất bao dung với bề tôi, nhưng đúng là so với mộ phần của Estelle de la Fano, chàng ít quan tâm đến lăng mộ của các tiên vương hơn. Người chàng đang cân nhắc là Gasem. Chàng nghĩ hắn ta có thể làm tốt chuyện này.

Ferdas là đồng tộc của tể tướng Lucian, Gasem cũng được coi là thuộc gia tộc đó. Tuy nhiên, bọn họ không quen biết nhau.

“Cháu có thể làm phó quản lý lăng mộ hoàng gia trong vòng nửa năm không?”

Gasem lập tức từ chối lời đề nghị của Lucian.

“Không, không, cháu không dám. Giờ cháu không đủ sức đảm nhận việc quan trọng này đâu.”

Dù bên ngoài tỏ vẻ khiêm nhường nhưng trong lòng Gasem nghĩ khác. Quản lý lăng mộ hoàng gia là chức quan có địa vị cao và bổng lộc hậu hĩnh, nhưng….

“Nói trắng ra thì ta chỉ là kẻ canh mộ. Hoàn tất lễ tang cũng đồng nghĩa với việc không gặt hái được thêm thành tựu nào nữa. Đó không phải công việc giành cho kẻ tham vọng.”

Và vì không tìm được ai thay thế, Ferdas vẫn tiếp tục giữ chức này.

Tưởng rằng chuyện Ferdas sẽ kết thúc ở đây, nhưng hai người đều thấy lạ.

“Ta quên mất, chuyện thi thể của vua Andragoras cứ thế bỏ qua ư?”

Người lên tiếng là chàng hát rong với tài năng chơi đàn điêu luyện, nhưng còn nổi tiếng hơn về tính đào hoa, thời anh ta còn lang bạt khắp nơi.

“Dù sao người cũng đã mất, ta nghĩ nên tạm gác lại một thời gian, nhưng tốt hơn vẫn nên suy nghĩ nghiêm túc vấn đề này.”

Người trả lời là họa sĩ cung đình. Nhưng có lẽ trong lịch sử Pars, lần đầu tiên có một vị họa sĩ cung đình đáng sợ như vậy.

Cuộc trò chuyện giữa hai “nghệ sĩ lớn” đại diện cho nền văn hóa nghệ thuật Pars đương thời diễn ra ở một góc kỹ viện. Phần lớn thời gian, Gieve sống ở đây chứ không mấy khi về nhà. Dù có vài kỹ nữ trong phòng nhưng họ cách xa một khoảng để đảm bảo riêng tư, còn hai người đàn ông dựa lưng vào chiếc ghế đặt trên sân thượng.

Nói nửa chừng, Narsus bất chợt đề cập đến một chuyện lạ lùng,

“Dù không có chứng cớ nhưng thi thể vua Andragoras biến mất khỏi lăng mộ, nhưng lại không có ở ngôi đền dưới lòng đất.”

“….”

“Thế thì sao?”

“….”

“Giờ ngôi đền bóng tối đã bị lục soát mọi ngóc ngách rồi, rốt cuộc thi thể vua Andragoras ở đâu?”

Gieve không đáp. Anh cảm thấy Narsus thực ra chỉ đang tự hỏi bản thân. Tự rót rượt cho mình, anh dốc cả rượu lẫn nắng thu vào miệng. Nhìn Narsus đăm chiêu hồi lâu, anh mới nói.

“Đúng là, hai vợ chồng đó chỉ gây thêm rắc rối cho bệ hạ.”

Gieve nói đến vua Andragoras và hoàng hậu Tahamine. Nhắc đến tiên vương cùng vợ ông ta, trong giọng điệu của anh chàng chẳng có chút tôn kính nào.

“Chết rồi cũng thành mầm mống tai họa cho bệ hạ. Dù chúng ta không thể làm gì người chết nhưng người sống thì được đó. Ta sẽ đến Hermande một lần nữa và theo dõi hoàng hậu. Nếu có gì bất thường, cứ thẳng tay giải quyết luôn cho gọn…”

“Để ta suy nghĩ ta đã.”

Narsus thường không trả lời lấp lửng như vậy, nhưng đâu ai biết sau đó mọi chuyện có thể trở nên tồi tệ hơn hay không. Narsus cảm thấy nên Gieve vắng mặt vào thời khắc quan trọn thì rất khó khăn.

Cô kỹ nữ trẻ người Maryam thận trọng quan sát trên sân thượng, thông báo cho họ biết có một vị khách mới tới. Đó là Dariun. Khi đến tìm Narsus và không thấy anh ta ở nhà, anh hỏi người hầu và được cho biết chủ nhân đã tới kỹ viện.

“Chuyện gì vậy, Dariun?”

“Không có gì, ta chỉ nghe tin hai kẻ gian xảo bậc nhất ở Pars đang bí mật bàn bạc gì đó nên đến theo dõi.”

Narsus và Gieve đồng thanh.

“Đừng so sánh ta với anh chàng này.”

“Ta biết ta biết, xin lỗi hai người, được chưa.”

Sau đó, bọn họ họ tường thuật lại cho Dariun từ đầu. Về chuyện xảy ra ở lăng mộ tiên vương, Dariun không có thêm thông tin gì mới. Trong lúc nói chuyện, chiến binh áo đen chợt nhớ ra.

“Narsus, ngươi từng nói đến chuyện liên hôn giữa Arslan bệ hạ cùng người con thất lạc của tiên vương?”

“Đúng là ta từng nói vậy.”

Giọng Narsus chẳng có chút vui vẻ nào.

“Không được đâu, quên chuyện đó đi.”

Bây giờ có hai người có khả năng là công chúa mất tích, là Layla và Parisa. Layla uống máu Xà vương Zahhak và trở thành tay chân của lũ pháp siw. Cô dường như có mối quan hệ với tên chiến binh điên cuồng Ilterish. Còn Parisa là tình nhân trước đây của Zandẹ, giờ là vợ của Parafuda. Dù cô có thực là công chúa đi nữa cũng không thể nhập cung làm vợ của Arslan.

“Nếu bệ hạ kiên quyết yêu cầu thì là chuyện khác.”

“Nghĩ cỡ nào đi nữa, chuyện đó cũng không xảy ra.”

Dariun uống cạn ly rượu trong một hơi.

“Bệ hạ thực sự tổn thương sâu sắc trước cái chết của nữ hiệp sĩ xứ Lusitania, nhưng người vẫn còn trẻ. Sau khi tiêu diệt Xà vương Zahhak, bệ hạ sẽ tìm người khác phù hợp hơn.”

“Ngươi nghĩ vậy thật sao, Dariun?”

“Đương nhiên rồi. 10 năm nữa bệ hạ vẫn còn chưa tới 30 tuổi.”

“Nói thì hay lắm…”

Narsus đáp một cách mơ hồ. Cách đây vài ngày, Narsus đã trò chuyện với nhà vua. Sau cái chết của Estelle, Narsus nhất quyết muốn thảo luận với Arslan để hỏi suy nghĩ của chàng về việc thành hôn nhưng bị Arslan cắt ngang.

“Narsus, ý ngài là muốn ta trở thành người lập nên triều đại mới phải không?”

Dù Arslan nói với giọng bông đùa nhưng ánh sáng lấp lánh trong đôi mắt chàng khiến Narsus nghẹn họng.

Dù Narsus là người thông minh tuyệt đỉnh nhưng chưa bao giờ nghĩ mình có thể nắm Arslan trong lòng bàn tay. Nếu một vị chủa nhân làm thứ gì cũng trong tính toán của bản thân thì thật nhàm chán. Có điều gì đó trong tính cách cao thượng của Arslan nằm ngoài sự hiểu biết của Narsus, và điều đó mới thú vị làm sao.

Narsus nhìn hai người còn lại rồi điềm nhiên nói.

“Bệ hạ nói thế này : ngai vàng không nên định đoạt bởi huyết thống. Nếu ta có con, đương nhiên ta mong nó là người kế vị ngai vàng. Nhưng nếu ta không có, thì ta không muốn.”

Dariun nuốt nước bọt.

“Tức là bệ hạ không có ý định cưới công chúa và sinh thái tử, đúng không?”

“….Đúng vậy, Dariun. Bệ hạ không muốn kết hôn.”

Giọng Narsus tuy điềm tĩnh nhưng không giấu được sự cay đắng ẩn chứa.

“Trước kia ta từng nghĩ tình cảm của bệ hạ đối với cô gái tên Estelle kia chẳng thể gọi là yêu. Nếu cô ấy ở lại Pars, có thể dần dần theo thời gian, hai người sẽ nảy sinh tình cảm sâu sắc hơn. Hoặc nếu cô trở về Lusitania rồi vĩnh viễn không gặp gỡ, cô sẽ là ký ức. Vậy nhưng cô ấy quay lại đây rồi ra đi mãi mãi.”

Narsus hít sâu và nói tiếp.

“Cái chết của cô gái Estelle này là cú sôcs lớn. Đúng hơn, điều đó ảnh hưởng đến toàn bộ tương lai. Mỗi khi bệ hạ tiếp xúc với một người phụ nữ, hình bóng Estelle lại xuất hiện trước mắt người.”

Vẻ bối rối thoáng qua đôi lông mày Dariun.

“Không, ngươi nghĩ nhiều rồi. Nhìn Gieve đi, trước giờ ngừng quan tâm đến phụ nữ.”

Gieve lập tức làm vẻ mặt vô tội. Trái lại, Narsus nhún vai.

“Đừng đưa ra một ví dụ cực đoan như thế, Dariun. Nó sẽ làm hỏng lập trường đấy.”

“Đúng….nhưng mà như thế thì chẳng phải chúng ta nên giấu biệt chuyện của Estelle với bệ hạ, không để cho hai người gặp nhau sao?”

“Ừ, đáng lẽ họ không nên gặp lại nhau.”

“Nhưng giờ thì còn làm thế nào được nữa.”

“Đương nhiên, chúng ta không thể làm gì.”

Giọng điệu của Narsus muôn phần cay đắng. Gieve đặt chiếc cốc bạc trở lại bàn và nói.

“Ngài Narsus, rốt cuộc ngài định nói gì?”

Giọng của Gieve nghe cũng thánh thót như tiếng nhạc nhưng ẩn chứa vẻ sắc bén, cứ như thể Narsus sẽ giết anh ta bằng cái lưỡi độc ác của mình ngay khi anh ta định nói gì không nên.

“Arslan bệ hạ không mang dòng máu hoàng tộc Pars. Nếu đồng thuận việc bệ hạ lên ngôi, trước tiên phải chấp nhận sự thật rằng tư cách làm vua không liên quan đến huyết thống.”

Dariun im lặng lắng nghe, không còn dáng vẻ mỉa mai đùa cợt nữa. Ngay cả Gieve cũng nhìn Narsus chằm chằm với vẻ thích thú.

“Ta cảm thấy điều đó không sai, tư cách làm vua không nằm ở huyết thống. Chỉ cần mang trong mình huyết thống hoàng gia, kẻ vô năng bất tài hay kẻ tàn ác bất nhân cũng có thể thành vua ư? Ta không chấp nhận. Nhưng có lẽ người bình thường sẽ không cho là như thế.”

Narsus lặng lẽ thở dài. Dariun và Gieve cũng chìm vào những suy tư khác nhau. Những cơn gió đầu thu thổi qua sân thượng. Vài vệt nắng xuyên qua kẽ lá, rải rác những đốm vàng trên mặt bàn đá cẩm thạch.

“Dù nghĩ về nó bao nhiêu cũng chẳng thể làm được gì.”

Dariun cố hết sức để khiến bầu không khí vui tươi hơn.

“Ya và ngươi đều hơn bệ hạ 10 tuổi. Sinh sớm chết sớm, đó là lẽ thường. Chuyện vâng lệnh bệ hạ sau này, cứ giao hết cho Elam đi.”

“Phải, cứ giao cho Elam.”

“Đó chẳng phải lý do ngươi dạy dỗ Elam từ đầu sao?”

“….Ừ.”

“Nếu Elam và bệ hạ bằng tuổi nhau thì dưới họ có cả Aiyar nữa.”

Aiyar là con eran Kishward, giờ vẫn còn bé xíu. Narsus cười cay đắng.

“Vẫn còn quá sớm để mong đợi Aiyar làm được gì.”

“ĐÚng là thế thật.”

Vì có thêm Dariun nên chai rượu chẳng mấy chốc đã rỗng. Sau khi rượu mới được mang lên, rót đầy vào 3 ly, Dariun lên tiếng.

“Giờ hãy cứ học hỏi Gieve và Jimsa đi đã.”

Narsus nhướn mày. Dariun bật cười.

“Là mặc kệ Pars có ra sao, họ cũng chỉ trung thành với một mình Arslan bệ hạ. Cứ như vậy, dùng sinh mệnh hữu hạn để làm nên sự trường tồn của quốc gia đã là niềm kiêu hãnh lớn rồi. E rằng cả trăm cả ngàn năm sau cũng chẳng có người như thế nữa đâu.”

“Dariun.”

“Cái gì?”

“Đôi khi ta tự hỏi, ngươi có phải nhà hiền triết không.”

“Thi thoảng.”

“Hơi hiếm.”

Gieve vừa nói, vừa đùa nghịch chiếc cốc trên tay.

“Nếu ngài lo lắng vậy thì tuyển thêm nữ quan vào cung đi. Trong cung toàn các bà cô bàn thím, bệ hạ có muốn cũng chẳng rung động được. Cô bé đi theo ta và ngài Isfan trước đây cũng có thể coi là thiếu nữ đấy.”

Họ nhắc đến Aisha, một cô bé từng theo hầu hoàng hậu Tahamine. Dariun và Narsus đều lục lại ký ức của mình và lộ vẻ “À, đúng là có người như thế” nhưng không có ấn tượng gì.

----------------------------

Vào tháng 6 năm đó, Farangis và Alfarid, những người đến Oxus làm công vụ bị mắc kẹt trong ngục tối do âm mưu của Namarud, cuối cùng đã trốn thoát an toàn.

Sau đó, Farangis và Alfarid nhìn thấy một con quỷ vượn có cánh trốn thoát với cánh tay bị cụt. Giờ đây, chữ “Namarud” được viết lại bằng máu.

Sự ngờ vực khiến người ta buồn nôn, cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Alfarid. Chuyện gì đã xảy ra với Namarud….

“Cô Farangis, cô Alfarid?”

Một giọng nói đầy căng thẳng vang lên, và tiếng sủa vang dội của Sao Thổ nối gót theo chủ nhân của nó. Sao Thổ nhảy từ thuyền vào bờ trước, Isfan cũng chạy tới. Sau khi hay tin cái chết của người đồng đội, gương mặt vị tướng trẻ tràn gập vẻ đau thương nặng nề.

“Thật bi thảm. Ngài Jaravant đã gặp chuyện gì?”

Thi thể của Jaravant được che phủ bởi tấm chiến bào của Isfan. Binh lính nâng thi thể ấy lên, đặt xuống thuyền. Trên con thuyền chở người quá cố, ba người lặng lẽ trò chuyện.

“Ngài Jaravant bị đâm phía sau lưng. Tôi không nghĩ đó là kết quả của một cuộc giao đấu công bằng. Dù tôi không biết ngài ấy đấu với ai nhưng chắc chắn bên kia cố ý nhắm đến ngài ấy. Và anh họ tôi đã cố khiến tinh thần chiến đấu của ngài ấy giảm sút.”

“Theo lời cô, gã Namarud đó vẫn còn sống và tiếp tục giết người phải không?”

“Tôi không chắc, nhưng e là như thế.”

“Đúng là một kẻ đáng khinh.”

Isfan thở hổn hển. Như thể đáp lại cơn thịnh nộ của chủ nhân, Sao Thổ phát ra một tiếng gầm gừ.

Farangis không trả lời anh ta.

“Chắc bệ hạ sẽ rất đau buồn. Tháng trước là Estelle, tháng này là Jaravant. Toàn là tin xấu.”

“Quả là vậy.”

Giọng Alfarid cũng hết sức nặng nề.

Khi nhận được cáo phó của Jaravant, Arslan đã lặng người trong giây lát. Sau đó, chàng đưa hai tay che mặt. Cuối cùng, chàng hạ tay xuống, hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu vén khăn, nhìn thi thể của Jaravant.

Jaravant, tướng trấn thủ kinh thành Ecbatana, ai đã giết anh ta?”

Vì tin buồn ấy, cổng thành Ecbatana đóng kín một ngày. Lá cờ trắng được treo trên tường thành, phấp phới trong gió thu.

Estelle de la Fano qua đời với tư cách là bạn tâm giao của nhà vua, còn cái chết của Jaravant mang ý nghĩa khác. Đó là cái chết của một tướng lĩnh, một nhân vật quan trọng được nhà vua giao cho nhiệm vụ trấn thủ thành Ecbatana cách đây không lâu. Giờ đây, họ đã vĩnh viễn mất đi người này.

“Ta không thể chịu nổi khi chứng kiến đám tang của người trẻ tuổi hơn mình.”

Eran Kishward, người chủ trì tang lễ của Jaravant cho biết. Năm nay anh đã 34 tuổi trong khi Jaravant mới 29.

Jaswant thở dài nặng nề.

“Nếu hy sinh trong một cuộc đọ sức công bằng và trung thực trên chiến trường thì không có gì sai, nhưng bị người khác đâm sau lưng như thế, thật không chấp nhận được.”

Một vài tướng lĩnh thề sẽ lùng bắt Namarud, kẻ bị coi là hung thủ, trả thù cho Jaravant.

Dù vậy, kể cả khi Namarud đúng là kẻ giết Jaravant đi nữa thì tại sao hắn lại ở trong ngôi đền dưới lòng đất? Nếu hắn quy thuận Xà vương Zahhak thì sao có thể đến kinh đô với cơ thể đã mất một cánh tay? Một chiến binh dũng mãnh như Jaravant không thể dễ dàng bị giết kể cả khi anh đang quay lưng về phía kẻ địch. Hơn nữa, anh cũng thừa biết Namarud hèn hạ ra sao, vậy cớ gì lại quay lưng về phía hắn? Vì sao Namarud lại dùng huyết thư để nói với Jaranvat,

Vô số câu hỏi cùng mùi máu tanh lởn vởn trong cung điện Pars. Dù không ai nói nên lời không ai cho rằng cái chết của Jaravant là dấu chấm hết cho mọi điềm xấu.

Sau đám tang Jaravant, Arslan triệu tập 15 vị tướng giải phóng đến phòng tiếp kiến. Chàng gọi tên một người trong số họ.

“Ngài Tus.”

“Vâng, thưa bệ hạ.”

“Vị trí của Jaravant cần có người thay thế. Ta xin giao phó cho ngài.”

Tus nhìn vào mắt vị vua trẻ, rồi kính cẩn cúi đầu.

“Nếu bệ hạ có lệnh, thần xin vâng theo.”

Thực ra anh muốn được chiến đấu trực tiếp trên chiến trường hơn nhưng không thể từ chối yêu cầu của nhà vua sau khi Jaravant đã qua đời.

Gật đầu, Arslan đứng dậy khỏi ngai vàng. Thân hình chàng khẽ lảo đảo khi bước đi. Dariun, người đứng hầu bên cạnh, liền nắm lấy tay nhà vua.

“Bệ hạ.”

“À, Dariun. Cảm ơn anh, ta không sao.”

“Xin người bảo trọng.”

“Ta biết rồi….Dariun này…”

“Vâng?”

“Jaravant dường như đã ra đi thanh thản.”

“Đúng…”

“Vì ngài ấy không có lỗi gì cả. Ngài ấy đã hy sinh anh dũng.”

“Đúng thế.”

“Dariun, chúng ta phải tìm ra kẻ hèn hạ đã đánh lén ngài Jaravant.”

“Chắc chắn rồi, thưa bệ hạ.”

Chỉ trong vài ngày, hàng chục người cụt tay quanh vùng đó đã bị bắt về kinh đô hoàng gia. Tuy nhiên, trừ một số người mất tay do khai thác hầm mỏ, những người còn lại đều là thương binh. Họ được thả tự do sau khi xác minh đầy đủ danh tính.

Jaravant độc thân, không con cái. Huyết thống của lãnh chúa vùng Oxus cao quý đứt đoạn từ đây. Nhiều người hỏi rồi sai sẽ thừa kế gia tộc này, liệu họ có lụn bại hay bị bỏ rơi không, nhưng mọi chuyện chưa dừng ở đó.

Cánh cửa dinh thự mất chủ của Jaravant đóng chặt, người hầu cân nhắc xem rồi họ phải đi đâu. Halim, một người làm nghề kỳ lưng xuất sắc trong phòng tắm công cộng vô cùng tiếc thương trước cái chết của vị chủ nhân hào phóng, đáng tin cậy Jaravant.

“Nhà vua là người nhân từ, sẽ không để con dân của ngài lang thang đầu đường xó chợ. Tuy nhiên, dù sao thì chuyện này cũng quá bi thương. Chủ nhân của chúng ta qua đời đột ngột quá. Rõ ràng ngài ấy còn nhiều dự định. Thậm chí ngài còn bảo khi ngài thành hôn, ta sẽ cho ta một chỗ ngồi tốt nữa mà…”

Halim tan nát cõi lòng, nước mắt chảy như mưa.

Từ ngày 22 tháng 8, có 16 vị tướng dưới quyền Arslan nhưng đến ngày 10 tháng 9, một người đã ra đi. Thời gian “16 tướng giải phóng” quy tụ đầy đủ dưới trướng Vua giải phóng chỉ kéo dài đúng 20 ngày.